Giáo dục

Nghệ An: Những thầy cô giáo “gieo chữ” miền biên viễn

Thập niên 80, nhiều thầy cô giáo miền xuôi tự nguyện lên vùng núi khó khăn cắm bản “gieo chữ” mang theo nhiệt huyết với mong ước “trồng người” miền biên viễn.

Đầu thập niên 80, những người thầy, người cô miền xuôi tự nguyện lên vùng núi khó khăn cắm bản “gieo chữ” mang theo nhiệt huyết với mong ước “trồng người” nơi miền biên viễn.

Dặm dài gieo chữ

Năm 1987, cô giáo Phan Thị Huyền tốt nghiệp Trường Cao đẳng sư phạm Nghệ Tĩnh. Thời điểm đó, cầm tấm bằng tốt nghiệp khoa Toán trên tay, cô Huyền có cơ hội để về công tác tại quê nhà. Chị Huyền kể, khi đó bố chị vốn là hiệu trưởng, mẹ chị là giáo viên lại động viên con lên miền núi cao công tác “làm nghĩa vụ để có thể đóng góp cho các huyện vùng cao”…Với nhiệt huyết tuổi trẻ, chị xa nhà lên huyện miền núi Con Cuông với ý định ban đầu sẽ đi hai, ba năm rồi về.

Lớp học của Trường Tiểu học Đọoc Mạy - huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An

Thế nhưng, chuyến đi ấy kéo dài cho đến hôm nay, tròn 35 năm và chỉ một thời gian ngắn nữa cô Huyền sẽ về hưu. Nhớ lại những ngày mới lên công tác tại xã Lục Dạ, một trong những xã xa xôi của huyện Con Cuông, cô Huyền bảo “khó khăn vô vàn”. Hơn thế, việc dạy học ở nơi “rừng sâu nước độc” cũng khác hơn nhiều so với hình dùng của một nữ sinh trường sư phạm vốn sinh ra ở vùng thuận lợi.

Đối với cô giáo trẻ lúc bấy giờ, nhiệt huyết của tuổi trẻ và tình yêu nghề thôi thúc cô mang con chữ đến với những em nhỏ vùng cao. Thế nhưng, khi chưa đến trường học, cô Huyền không nghĩ được rằng bà con trên này lại khó khăn đến như vậy và cái khó hơn là con đường đến trường. Với nhiều trò, đường đi bộ tới điểm trường học khoảng 3-4 giờ đồng hồ.

Trong trí nhớ của cô Huyền, lần đầu lên tới trường xã Lục Dạ (huyện miền núi Con Cuông) cô không thấy "điểm trường" đâu, mà chỉ có những ngôi nhà tranh tre nứa lá mỗi lớp học có khi chỉ có 2 – 3 học sinh và các em đều là học sinh người dân tộc thiểu số. Khi lớp đã có, đến lượt... đi tìm học trò. “Cứ vào những ngày mùa, các em lại theo cha mẹ lên rẫy. Đối với họ, cái ăn còn quan trọng hơn cái chữ”, cô Huyền lý giải.

Hành trình 'gieo chữ' rất gian nan, vậy mà cô giáo Huyền cuối cùng vẫn "thuyết phục" được các phụ huynh vùng cao. Các cháu bé cũng bắt đầu tin và yêu con chữ. Tất cả chỉ bằng tấm lòng và sự gần gũi của người cô dưới xuôi lên...

Cô giáo Nguyễn Thị Hải và con trai tại căn nhà thuê gần với Trường Mầm non Đọoc Mạy (H. Kỳ Sơn)

Suốt 28 năm qua, có một thầy giáo miệt mài từng bước "gieo chữ" từ miền xuôi lên tận vùng núi cho các em nhỏ đồng bào Mông ở huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An.

Hành trình 'gieo chữ' của thầy giáo Phạm Xuân Quang cũng có nhiều điều thú vị. Thầy Quang là một trong những người công tác kỳ cựu nhất ở huyện Quế Phong. Thầy có một biệt tài khác là nói tiếng Mông như người bản xứ và có đến gần 20 năm công tác tại Trường Tiểu học Tri Lễ 4 – ngôi trường đặc thù đóng ở nơi xa xôi nhất của huyện Quế Phong và chỉ có mỗi giáo viên nam.

Kể về điều thú vị này thầy nói "Trường Tri Lễ 4, đóng ở bản Mường Lống là nơi sinh sống của bà con người Mông. Để có thể dạy bà con ở đây, tôi phải bắt đầu học tiếng Mông bằng cách mỗi từ ngữ, mỗi câu thoại, tôi đều phải ghi vào cuốn sổ nhỏ và thương xuyên đọc đi, đọc lại. Ngoài công việc dạy học, thì tôi còn được giao nhiệm vụ thực hiện công tác dân vận. Do đồng bafoo Mông nên có nhiều phong tục riêng. Vì vậy để họ hiểu và dễ chia sẻ thì chúng tôi phải có cách tiếp cận và nói để họ hiểu họ tin...".

Thầy giáo Phạm Xuân Quang, quê ở xã Trù Sơn, huyện Đô Lương, năm 1994 kể từ khi tốt nghiệp Trường Sư phạm Miền núi và được cử về “gieo chữ”, trở thành giáo viên của Trường tiểu học Tri Lễ 4.

Thầy Quang tâm sự: Để lý giải vì sao tôi lại gắn bó với mảnh đất này lâu như vậy cũng bởi, khi lên đây công tác được gần gũi với bà con nên dần cũng yêu đồng bào ở đây. Ngoài ra, tôi nhận thấy rằng, với công sức, sự tâm huyết của mình và các đồng nghiệp đã làm thay đổi được nhận thức của bà con. Người dân ở đây đã biết chữ vì thế họ hiểu biết hơn và từ đó làm cho cuộc sống ở đây ngày một phát triển. Mặt khác càng sống với đồng bào họ càng yêu quý mình, đùm bọc mình nên cảm thấy đây như quê hương thứ hai.

Chạnh lòng nhưng chỉ trong giây lát

Những giáo viên ở điểm trường tiểu học và mầm non Đọoc Mạy huyện Kỳ Sơn (Nghệ An) đều là người ở địa phương khác đến bám bản “gieo chữ”. Người ở huyện Thanh Chương, người ở Diễn Châu, người ở Đô Lương.… Ở cái nơi núi cao, đèo sâu này, hạnh phúc gia đình hay những bữa cơm sum vầy là điều xa xỉ đối với những thầy cô cắm bản. Vì điều kiện công tác, nhiều thầy cô gạt nước mắt xa gia đình, ở lại cắm bản cho giấc mơ con chữ của những học trò được trọn vẹn.

Kể về chuyện của gia đình mình, cô giáo Nguyễn Thị Hải nhớ lại, cô và chồng đều cùng quê huyện Thanh Chương. Tròn 20 năm trước, cô giáo Nguyễn Thị Hải và chồng là thầy giáo Nguyễn Trọng Toàn lên Kỳ Sơn dạy học và được biên chế về trường tiểu học và mầm non Đọoc Mạy – một trong những trường xa xôi và khó khăn nhất của huyện miền núi Kỳ Sơn. Sau khi lập gia đình, sinh con, vì điều kiện thời tiết ở vùng cao khắc nghiệt, vợ chồng anh anh chỉ sống cùng con gái đầu hai năm. Sau đó, cháu được gửi về quê nhờ em gái chăm sóc. Cuộc sống xa con vất vả nên khi cháu đầu được 11 tuổi, gia đình mới quyết định sinh con thứ 2. Lần này, thương con, không muốn con phải xa mẹ, nên hai vợ chồng thuê một căn phòng nhỏ gần trường rồi gia đình 3 người cùng sống với nhau.

Cô và trò Trường Phổ thông Dân tộc nội trú THCS huyện Kỳ Sơn

Cuộc sống cho đến lúc này vẫn là tạm bợ. Vì bố chồng tuổi đã cao, con gái cũng đã lớn nên sau 3 năm đề đạt nguyện vọng, cuối tháng 11 năm ngoái thầy Toàn được chuyển về xuôi. Riêng vợ và con trai anh thì vẫn phải ở lại Đọoc Mạy. Khổ nỗi, dù đã chuyển vê quê nhà Thanh Chương dạy học nhưng anh Toàn lại được phân về dạy ở Trường Tiểu học Thanh Xuân, cách nhà anh 40 km. Thế nên, anh lại phải ở tại trường, cuối tuần về thăm con gái. Vậy là, gia đình 4 người, nhưng vẫn phải chia thành 3 niêu, cuộc sống, đi lại hết sức vất vả. Từ ngày chồng về xuôi, cô giáo Nguyễn Thị Hải phải ở lại cắm bản tiếp tục gieo chữ. Nhớ con, nhớ chồng nhưng vì con còn nhỏ, đường xá xa xôi, rừng thiêng nước độc nên chỉ Tết và hè cô mới có dịp về quê…cả nhà thường xuyên phải ngắm nhau qua màn hình điện thoại.

Nhớ lại những ngày tháng qua, cô Hải không khỏi ngậm ngùi “Chở nhau trên chiếc xe máy cũ, bồng trên tay đứa con trai chỉ mới gần 4 tuổi, lần nào 2 vợ chồng mình cũng ngổn ngang tâm trạng. Những năm trước, là cảm giác thương bố già, thương đứa con gái đầu đang phải gửi ở nhà em gái. Thì nay, lại là nỗi lo khi một mình nơi xa xôi cách trở, không biết khi nào mới lại được về thăm gia đình…”.

“Khó khăn cuộc sống riêng là vậy, nhưng với tôi khắc khoải trong tim mình là hình ảnh những cô cậu học trò không quản ngại khó khăn, vất vả, điều kiện học tập thiếu thốn để đến lớp. Xa chồng, xa con tôi lại dồn tình yêu thương ấy cho học trò, và bù đắp lại cho tôi chính là sự kiên trì học tập, chăm ngoan của học trò” – chị Hải xúc động nói.

Tại các trường ở các huyện vùng cao của Nghệ An như Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp…ngôi trường nào cũng có một dãy nhà công vụ dành cho giáo viên miền xuôi lên vùng cao dạy học. Thế nhưng trong những căn phòng chật hẹp và đơn sơ đó, hầu như phòng nào cũng “khuyết” bởi có người thì vợ xa chồng, người thì chồng xa vợ. Lại có những phòng, vì vợ chồng đều cắm bản nên mỗi người một nơi họ phải chấp nhận sống xa nhau, con cái gửi cho ông bà dưới xuôi.

Dọc theo các trường học ở miền Tây xứ Nghệ, cũng không hiếm khi chứng kiến cảnh các thầy giáo, cô giáo đem con từ xuôi lên ở cùng với bố mẹ. Cuộc sống tha hương, ước mơ lớn nhất của các thầy cô đơn giản là bữa cơm có đủ gia đình, được đem con đến trường như bất cứ một ông bố bà mẹ bình thường nào khác…Nhiều người cũng nuôi khát vọng được về xuôi với lý do duy nhất là gần con, gần gia đình...

Tác giả: Hoàng Trinh

Nguồn tin: Báo Công thương

BÀI MỚI ĐĂNG

TOP