Theo trang mạng NationalInterest ngày 3.7, cuộc đụng độ gần đây ở Biển Đông giữa hải quân Indonesia và lực lượng bảo vệ bờ biển của Trung Quốc đã "hồi sinh" lợi ích công cộng đối với khu vực. Một số hoan nghênh quyết tâm của Indonesia trong việc bảo vệ lãnh thổ hàng hải hợp pháp của mình. Tuy nhiên, một số vẫn còn tự hỏi về động cơ của Trung Quốc trong kích động xung đột như vậy, bao gồm cả khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam, Malaysia và Philippines.
Điều gì dẫn đến chiến tranh?
Làm thế nào để giải thích tại sao Trung Quốc có nguy cơ khơi mào và lôi kéo Mỹ vào một cuộc chiến tranh lớn vì những hòn đảo không có người ở?
Một số người cho rằng, những cuộc đụng độ trên Biển Đông là để kiểm soát trữ lượng dầu mỏ và khí đốt lớn ở vùng biển này. Tuy nhiên, điều này có vẻ như không thực sự thuyết phục. Trong lịch sử hiện đại, các cường quốc hiếm khi tạo ra cuộc chiến tranh lớn nếu chỉ vì nguồn lực kinh tế.
Vậy cuộc chiến nếu có là vì “đường lưỡi bò” của Trung Quốc? Để chắc chắn chúng ta cần phân biệt các phương tiện cách thức và mục đích của tất cả các bên. Cái gọi là “đường lưỡi bò” là một phương tiện mà Trung Quốc sử dụng để biện minh cho mục đích chính sách của mình. Nhưng nó không phải là cái mà Trung Quốc muốn là đạt được để kết thúc trò chơi.
Nhìn lại lịch sử ở thế kỷ XX, Thế chiến I bắt đầu khi Áo-Hungary tuyên chiến và tấn công Serbia. Vì vậy, không có nghĩa là chiến tranh thế giới I đã được gây ra bởi cuộc xâm lược Áo-Hungary? Áo-Hungary đã bắt đầu chiến tranh, nhưng nó chắc chắn không do mình gây ra. Nguyên nhân của chiến tranh là mối quan tâm của các cường quốc về trật tự khu vực phổ biến ở châu Âu và mong muốn của họ để thay đổi nó.
Người Đức (cùng với Áo-Hungary) không thoải mái khi quyền lực chuyển dịch về phía Pháp-Nga (và có thể là người Anh) liên minh. Họ đã nhìn thấy sự xói mòn của sự thống trị của Đức về trật tự châu Âu trong khi tìm kiếm giải pháp để đảo ngược xu hướng. Người Pháp và người Nga đã bị làm nhục trong trật tự chính trị do Đức dẫn trước và cũng đã được tìm kiếm một cách để trừng phạt Đức cùng với các đồng minh.
Tương tự như chiến tranh thế giới I, Thế chiến II bắt đầu với một cuộc xâm lược, khi Hitler xâm lược Ba Lan. Tuy nhiên, Ba Lan không phải là nguyên nhân của sự leo thang đối đầu Anh-Pháp và Đức để dẫn đến một cuộc chiến tranh năm 1939. Thay vào đó, Anh và Pháp đã lo ngại về sự cân bằng chuyển dịch quyền lực hướng có lợi cho Đức và tìm cách ngăn chặn nó từ đi xa hơn theo hướng đó và cuối cùng dẫn đến chiến tranh trên sự sống còn của Ba Lan.
Nhìn một cách đơn giản, trường hợp của Serbia và Ba Lan có điểm chung với Biển Đông và biển Hoa Đông, đều được phục vụ như một địa điểm của sự cạnh tranh quyền lực rất lớn.
Nhưng Biển Đông và biển Hoa Đông cũng như Serbia và Ba Lan chắc chắn không phải là nguyên nhân gây ra sự cạnh tranh đó.
Để hiểu được nguyên nhân của sự cạnh tranh giữa Mỹ-Trung Quốc, người ta cần phải xem lịch sử và hình ảnh chiến lược của khu vực châu Á. Sau thất bại của Nhật Bản trong Thế chiến II, Mỹ trở thành cường quốc duy nhất thống lĩnh toàn khu vực. Kể từ ngày đó, khu vực này đã đi theo trật tự khu vực do Mỹ đứng đầu. Tuy nhiên, không phải tất cả các quốc gia trong khu vực đều chấp nhận tính ưu việt của Mỹ.
Như hiện nay, khi Trung Quốc đã thu thập đủ sức mạnh và trở nên đủ mạnh mẽ để phù hợp với vị trí của một siêu cường, (hoặc thậm chí vượt qua Mỹ trong việc triển khai sức mạnh ở châu Á). Trung Quốc muốn có một vai trò lớn hơn trong lãnh đạo khu vực.
Nhà lãnh đạo Singapore Lý Quang Diệu có lần nhận xét, "Không giống như các nước mới nổi khác, Trung Quốc muốn là Trung Quốc và được chấp nhận như vậy, không phải là một thành viên danh dự của phương Tây." Rõ ràng là từ quan sát của ông Lý có thể thấy rằng Trung Quốc đã thiết lập tầm nhìn của mình để thay thế Mỹ quyết định trật tự khu vực trong khu vực châu Á.
Làm thế nào để Trung Quốc chiếm ghế của Mỹ?
Tuy vậy, khát vọng của Trung Quốc để thống lĩnh trận tự khu vực đã không may gặp những thách thức gay gắt từ Mỹ cũng như các cường quốc khác trong khu vực như Nhật Bản và Ấn Độ.
Sau sự nổi lên của sự quyết đoán của Trung Quốc, Mỹ đã giới thiệu mọt thuật ngữ "xoay trục" (sau này đổi tên là "tái cân bằng") trong khi đồng minh Nhật Bản cũng đã sửa lại hiến pháp, cho phép Tokyo chủ động hơn cả về chính trị và quân sự ở nước ngoài.
Ấn Độ, về phần mình, giới thiệu một chính sách hướng Đông để tăng cường sức mạnh hải quân của mình nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của Trung Quốc vào Ấn Độ Dương.
Câu hỏi hết sức quan trọng đối với các nhà lãnh đạo của Trung Quốc là: Làm thế nào Trung Quốc có thể thay thế Mỹ dẫn đầu trật tự khu vực từ châu Á?
Trung Quốc dường như tin rằng trật tự khu vực do Mỹ dẫn đầu được dựa trên trật tự an ninh chính trị của liên minh do Mỹ dẫn đầu gồm gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Philippines và Thái Lan. Hệ thống liên minh này cấp quyền cho Mỹ truy cập tới các căn cứ quân sự để đảm bảo khả năng của Mỹ trong các trường hợp nhanh chóng triển khai sức mạnh của mình trong khu vực khi cuộc khủng hoảng nổ ra.
Nếu không có những cơ sở đó, Mỹ sẽ không thể hoạt động hiệu quả, không thể bảo vệ đồng minh mà sẽ chỉ có ảnh hưởng cận biên trong một cuộc khủng hoảng. Do đó, giảm bớt khả năng của Mỹ để đối phó với một cuộc khủng hoảng trong khu vực có nghĩa là ảnh hưởng của Mỹ trong trận tự khu vực sẽ giảm đi.
Vì vậy, như theo logic, phá vỡ hệ thống liên minh này sẽ dẫn đến một cuộc chia tay của trật tự khu vực do Mỹ dẫn đầu. Vì vậy, câu hỏi lúc này là: làm thế nào Trung Quốc có thể phá vỡ hệ thống đồng minh của Mỹ?
Mỹ đảm bảo với các đồng mình rằng, Washington sẽ giúp bảo vệ họ trong thời gian khủng hoảng. Và cũng giống như một công ty bảo hiểm thương mại, sự thành công của doanh nghiệp dựa trên sự tín nhiệm của người bảo hiểm. Miễn là đồng minh của Mỹ tin rằng Washington sẽ thực hiện lời nói của mình, hệ thống đồng minh sẽ bền chặt. Tuy nhiên, nếu các đồng minh của Mỹ không tin vào hành động của Mỹ, từ đó nghi ngờ về độ tin cậy của Washington, ắt hẳn hệ thống liên minh sẽ rạn nứt.
Vậy câu hỏi đặt ra, làm thế nào Trung Quốc có thể gây thiệt hại cho Mỹ về uy tín dẫn đến việc hệ thống liên minh khu vực bị rạn nứt?
Để chắc chắn, không có cách nào tốt hơn là Trung Quốc phải cho đồng minh của Mỹ biết rằng, Mỹ sẽ không đến bên cạnh họ khi họ cần. Điều đó có nghĩa là kích động một cuộc xung đột với các đồng minh của Mỹ, làm cho chắc chắn rằng họ sẽ kêu gọi hỗ trợ của Mỹ, đồng thời, làm cho chắc chắn rằng Mỹ sẽ không thực hiện chính sách bảo vệ đồng minh.
Đó sẽ là một cuộc chơi nguy hiểm, hay nói cách khác, Trung Quốc đang chơi trò với lửa. Để làm được điều đó, Bắc Kinh phải làm hết sức mình để đảm bảo rằng Mỹ sẽ không đến với các đồng minh của mình hoặc nếu không Trung Quốc sẽ phải đối mặt với một cuộc chiến tranh với Mỹ một với một kịch bản nghiệt ngã cho cả hai bên đó là sở hữu vũ khí hạt nhân.
Tại Diễn đàn Shangri-la vừa qua ở Singapore, Phó Tổng tham mưu trưởng Trung Quốc Tôn Kiến Quốc đã đề xuất ý tưởng xây dựng khu vực Châu Á-Thái Bình Dương thành “hình mẫu về các nền văn minh khác nhau chung sống hòa bình và cộng sinh hài hòa”. Luận điểm này có vẻ mềm dịu song hết sức mập mờ, có thể sẽ lôi kéo được sự đồng cảm của một số quốc gia không hài lòng với sự phê phán từ phương Tây, chưa kể là nhiều nước có nhu cầu tranh thủ vốn đầu tư đang bị hấp dẫn bởi thực lực tài chính hùng mạnh của Trung Quốc. Từ nay về sau, Trung Quốc sẽ tiếp tục cho thấy triển vọng đáng buồn, nhiều nước một mặt vẫn tìm kiếm đầu tư từ Trung Quốc nhưng mặt khác lại tăng cường hợp tác an ninh với Mỹ. |
Tác giả bài viết: Thanh Minh
Nguồn tin: