Bản Đồng Tiến, xã Đồng Văn, Quế Phong nằm trong vùng đệm của Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pù Hoạt. 50 hộ đồng bào các dân tộc ở đây hiện nhận khoán bảo vệ hơn 1.300 ha rừng và mỗi ha rừng như vậy được hỗ trợ 305 ngàn đồng/năm từ tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng. Số tiền này không thuộc ngân sách nhà nước hỗ trợ như trước mà là của doanh nghiệp khai thác tài nguyên trên địa bàn có rừng phải trích và trả cho người dân có trách nhiệm quản lý, bảo vệ rừng. Ngoài số tiền hơn 500 triệu được hỗ trợ mỗi năm, người dân còn được khai thác tận thu tre nứa lùng, các sản phẩm phụ từ rừng và nhận hàng chục ngàn cây keo để trồng rừng theo Quyết định 147 của Thủ tướng Chính phủ.
Ngoài số tiền được hỗ trợ từ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, người dân được tận thu các sản phẩm phụ từ rừng.
Anh Lang Văn Phê - Trưởng bản Đồng Tiến, xã Đồng Văn, huyện Quế Phong chia sẻ: “Khi được giao trách nhiệm giữ rừng, dân bản Pù Khóng chúng tôi đã chia làm 5 nhóm, trong tuần, trong tháng, từng nhóm đi tuần tra rừng, để nắm tình hình, nếu phát hiện có đối tượng khai thác, phá rừng thì chúng tôi ngăn chặn, đẩy đuổi và báo cho Ban quản lý khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt.”
Quế Phong hiện đang quản lý hơn 144 ngàn ha rừng, diện tích rừng được chi trả dịch vụ môi trường rừng hơn 56 ngàn ha. Trên địa bàn hiện có 8 nhà máy thủy điện, trong đó đã có 3 nhà máy tham gia dịch vụ môi trường rừng. Hàng năm, chính quyền địa phương và các chủ rừng đã tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân về pháp luật bảo vệ rừng. Nhất là khi quyền lợi của người dân đã được đáp ứng, theo chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Đánh giá về tính hiệu quả của chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng tại Quế Phong, Phó Chủ tịch UBND huyện – ông Lang Văn Minh nói: “Trong quá trình chi trả chúng tôi thấy được quyền và lợi ích của người dân, tạo được động lực trong công tác bảo vệ và phát triển rừng. Không chỉ ổn định diện tích rừng mà còn tạo nguồn thu nhập đáng kể cho người dân trong việc bảo vệ rừng trong khu vực thuộc lưu vực các nhà máy thuỷ điện. Đây là chủ trương rất hợp lý và đúng đắn đến với bà con nhân dân trên địa bàn huyện.”
Còn tại huyện Tương Dương, diện tích đất rừng hiện có hơn 256 ngàn ha, trên địa bàn có 2 nhà máy thủy điện là: Bản Vẽ và Khe Bố. Đối với các doanh nghiệp khai thác tài nguyên thiên nhiên, đào đắp, tích nước lòng hồ để sản sinh ra năng lượng điện, tính ra 1 kwh điện thương phẩm, nhà máy thủy điện phải trích ra 20 đồng để nộp vào quỹ dịch vụ môi trường rừng. Nguồn quỹ này sẽ được hỗ trợ cho chủ rừng và tất cả người dân tham gia quản lý, bảo vệ rừng trên lưu vực thủy điện.
Ông Nguyễn Công Mậu - Phó Ban quản lý rừng phòng hộ Tương Dương ghi nhận: “Chính sách này đã giải quyết được 3 vấn đề lớn. Thứ nhất, góp phần thực hiện tốt công tác quản lý bảo vệ rừng trên địa bàn, cụ thể là diện tích rừng có độ che phủ ngày càng tăng. Thứ hai, góp phần vào an sinh xã hội trên địa bàn, tăng thu nhập cho người dân, từ đó làm giảm áp lực tác động xấu đến rừng. Thứ ba, nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống cho lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách của Ban.”
Màu xanh rừng phủ kín tại lưu vực các nhà máy thuỷ điện trên địa bàn huyện Tương Dương.
Nói về các giải pháp thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, ông Nguyễn Khắc Lâm - Giám đốc Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh cho biết: “Trong thời gian tới chúng tôi đã định hướng tiếp tục tranh thủ sự quan tâm ủng hộ của các ngành, các cấp, góp phần hoàn thiện chính sách. Mặt khác mở rộng quan hệ đối tác để tăng thêm nguồn thu xã hội hoá. Bên cạnh đó, từng bước nhanh chóng hoàn thiện hệ thống chi trả, nâng cao nghiệp vụ và tổ chức hướng dẫn quản lý sử dụng tiền dịch vụ môi trường rừng, đặc biệt ở cấp cơ sở, thôn bản để tạo sự minh bạch, hiệu quả hơn."
Gần 5 năm qua, trên địa bàn, việc áp dụng Nghị định 99 của Chính phủ về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đã đạt được hiệu quả nhất định. Đến nay, nguồn quỹ chi trả dịch vụ môi trường rừng đã chi trả hơn 174 tỷ đồng cho tổng diện tích hơn 228.106 ha, trên địa bàn 6 huyện nằm trong lưu vực. Nhờ vậy, người dân đồng bào dân tộc thiểu số có một nguồn thu nhập đáng kể hàng năm do nhận khoán bảo vệ rừng. Điều này đã làm giảm áp lực tình trạng đốt nương làm rẫy và tăng độ che phủ của rừng của Nghệ An.
Tác giả bài viết: Huy Cung