Bạn yêu nhạc nghe hát chủ yếu qua Đài Tiếng nói Việt Nam hay Đài truyền thanh Hà Nội. Truyền hình chưa phát triển và cũng hiếm nhà có tivi, vậy nên hầu hết khán giả không biết mặt ca sĩ. Vì chẳng mấy ai có tiền mua vé vào rạp, các buổi biểu diễn miễn phí ngoài trời thu hút rất đông khán giả.
Ngoài phần lương cố định, các nghệ sĩ biểu diễn có thêm vài đồng tiền "phụ cấp thanh sắc" (khoản khấu hao giọng hát và nhan sắc). Ngoài ra, khẩu phần ăn của họ được ưu tiên hơn chút đỉnh. Trong khi người bình thường được 13,5 kg gạo một tháng thì văn công có thể được đến 15 hoặc 18 kg. Mọi người nhìn vào như vậy là thấy "sướng lắm rồi", nhạc sĩ Văn Dung kể.
Nhạc sĩ Đoàn Bổng, tác giả ca khúc Dòng sông quê anh, dòng sông quê em kể ca sĩ thời bao cấp không biết mặc cả. Sau khi chương trình kết thúc, ban tổ chức sẽ gửi lại họ một phong bì, chỉ khi về nhà, nghệ sĩ mới biết phong bì chứa bao nhiêu tiền.
Nhạc sĩ Lân Cường - nguyên chủ tịch Công đoàn, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - hồi tưởng khi còn đương nhiệm, ông thường mời các ca sĩ nổi tiếng bấy giờ như Thu Hiền, Quốc Hương, Quang Thọ, Quang Hưng, Mạnh Hà, Ái Vân, Vũ Dậu, Tô Lan Phương… đến cơ quan biểu diễn. Tiền thù lao của cả đoàn chia ra chỉ đủ mỗi người mua một, hai bát phở.
Nếu biểu diễn ở địa phương, ca sĩ thường được người dân mời dùng cơm và biếu nhiều thức quà quê như giò, gà, chả lụa… NSND Thanh Hoa kể có lần thù lao của cả đoàn là một con lợn. Vì không ai biết mổ nên họ nhờ người dân làm thịt và chia hộ. Hoặc khi bà đi diễn ở nhà máy đường Vạn Điểm, ai cũng cầm về mấy ôm bã mía để đun nấu.
Sự ái mộ thời ấy cũng khá ý nhị. Nhiều viên chức nhà nước thường nhường chỗ cho ca sĩ trong lúc họ xếp hàng mua thực phẩm... Một số nam thanh niên để ảnh Ái Vân, Thu Hiền… trong ví. Hiếm người xin chữ ký hay chụp ảnh cùng thần tượng như bây giờ. Nhìn chung, ca sĩ không giữ khoảng cách với khán giả.
Ngoài nhiệm vụ biểu diễn cho người dân, nhiều nghệ sĩ cũng ra chiến trường phục vụ bộ đội. NSND Thanh Hoa kể lại trong cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung năm 1979, đoàn văn công cũng phải đeo ba lô con cóc nặng đến vài chục cân, trèo đèo lội suối để đến được doanh trại. Sân khấu ngoài chiến trường có khi là hai cái thùng xe tải cũ kê sát vào nhau. Không ai dám bật đèn sáng vì sợ địch phát hiện. Các chiến sĩ ngồi dưới vừa nghe hát vừa dấm dúi soi đèn pin để được nhìn thấy mặt ca sĩ. "Lúc đó, mọi người mặc định đây là vinh dự do Đảng và Nhà nước giao phó, chẳng ai màng đến quyền lợi gì khác", giọng ca Tàu em qua núi chia sẻ.
"Bài hát của mình vang lên là vui rồi"
Ca sĩ là vậy, đời sống nhạc sĩ cũng không khá hơn là bao. Tầng lớp sáng tác thời kỳ ấy đều phải sống dựa vào các cơ quan Nhà nước như nhà xuất bản, đài phát thanh, trường học, đoàn văn công… để lấy chế độ. Việc sáng tác được coi như nhiệm vụ nối dài từ sau Cách mạng. Người nhạc sĩ cũng là "chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng".
Nhạc sĩ Đoàn Bổng tâm sự khi lương công nhân được 10 đồng thì nhuận bút một bài hát được phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam được khoảng vài đồng. Tuy nhiên, các nhạc sĩ đều hăng hái sáng tác vì đam mê bởi "bài hát của mình được vang lên là vui rồi". Ông trầm ngâm: "Đây là thời kỳ giới nhạc sĩ ăn không đủ no nhưng vẫn để lại những tuyệt phẩm âm nhạc".
Kênh duy nhất để họ phổ biến tác phẩm của mình là sóng phát thanh và các buổi biểu diễn văn nghệ quần chúng. "Mặc dù lúc đó, vẫn đề tác quyền âm nhạc chưa được chú trọng nhưng cũng không bao giờ xảy ra chuyện vi phạm bản quyền hay đạo nhạc", nhạc sĩ Phó Đức Phương hồi tưởng.
Nhạc sĩ Lân Cường tâm sự thế hệ nghệ sĩ thời đó đến nay "người còn, kẻ mất". Ông và những người bạn của mình vẫn thường hàn huyên, ôn nghèo kể khổ. Ông muốn chia sẻ những câu chuyện xưa để nhắc nhở giới trẻ: "Giá trị của nghệ thuật lớn hơn giá trị của đồng tiền, việc tác phẩm và tiếng hát của bạn được ghi nhớ là điều mà mọi nghệ sĩ nên hướng đến".
Tác giả bài viết: Vĩ Thanh
Nguồn tin: