Theo các tài liệu, chứng cứ do cơ quan chức năng cung cấp, tháng 3/2018, ông Nguyễn Văn N, trú tại xã Nghi Phong có đơn gửi cơ quan Công an tố cáo ông Nguyễn Văn B (em ruột ông N) cùng với một số người có hành vi chiếm đoạt tài sản. Nội dung đơn như sau: Năm 2010, ông N có mua của vợ chồng ông T và bà Đ mảnh đất rộng 600 m2. Hai bên thỏa thuận, sau khi trả 720 triệu đồng cho vợ chồng bà Đ, ông N chịu trách nhiệm làm các thủ tục pháp lí với các cơ quan chức năng. Tin tưởng vào em trai, nên ông N đã giao toàn bộ giấy tờ mua bán đất để ông B làm giúp việc sang tên mảnh đất trên cho mình. Nhưng ông B đã sang tên mảnh đất trên cho vợ chồng ông B và bán cho một người khác.
Thông báo đình chỉ điều tra |
Khi Công an đang giải quyết, đột nhiên, ngày 2/5/2018, ông N có đơn xin rút đơn tố cáo. Trong đơn ông N viết: “Tôi viết đơn tố cáo anh Nguyễn Văn B giả mạo chữ kí của tôi để làm bìa đất của tôi mua của bà Đ ở xã Nghi Phong sang tên ông Nguyễn Văn B, qua quá trình làm việc với cơ quan điều tra, tôi nhận thấy chưa đầy đủ chứng cứ để tố cáo ông Nguyễn Văn B. Nay tôi viết đơn này, xin rút lại đơn tố cáo. Từ nay về sau tôi không thắc mắc khiếu nại về kết quả điều tra, xác minh của cơ quan Công an đối với đơn tố cáo của tôi đã viết".
Sau khi ông N có đơn rút đơn tố cáo, ngày 14/5/2018, Công an tỉnh Nghệ An có Công văn số 376/PC46(Đ1) nêu rõ: "Phòng PC 46 Công an tỉnh Nghệ An đã tiến hành xác minh, thu thập tài liệu để giải quyết đơn tố cáo theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn N đã làm đơn xin rút lại đơn tố cáo, nên Phòng PC46, Công an tỉnh Nghệ An đã kết thúc điều tra".
Tuy làm đơn tố cáo em ruột lừa đảo chiếm đoạt tài sản của mình, nhưng ông N lại không có bất kì chứng cứ nào để chứng minh việc tố cáo là có cơ sở. Ông N chỉ có duy nhất một tờ giấy viết tay với nội dung "Giấy nhận tiền mua đất, hôm nay ngày.. chú B nhận tiền của anh N 400.000.000 đồng (bốn trăm triệu đồng chẵn để mua đất). Nguyễn Văn B đã nhận đủ bốn trăm triệu, khi nào B bán đưa lại bốn trăm và tiền lãi, B". Còn ông B lại có chứng cứ thể hiện việc mua bán đất giữa ông B và bà Đ là có thực. Ông B có "Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất" được lập giữa vợ chồng ông T và bà Đ với ông B, việc chuyển nhượng trên có sự làm chứng của ông N. Cuối đơn có đầy đủ chữ kí của người chuyển nhượng, bà Đ; người nhận chuyển nhượng, ông B; người làm chứng, ông N. Trong giấy chuyển nhượng viết tay trên có ghi: "Trong khi chờ đợi làm thủ tục, có tranh chấp kiện cáo, thì bà Đ chịu trách nhiệm hoàn toàn trước pháp luật". Như vậy, việc chuyển nhượng đất giữa bà Đ với ông B là có cơ sở. Việc ông N tố cáo ông B lấy đất của ông là không đúng, ông N chỉ là người làm chứng.
Việc giao dịch mua bán đất cẩu thả, văn bản giao dịch viết tay lủng củng, khó hiểu dẫn tới hiểu lầm. Đây là bài học cho mọi người khi giao dịch mua bán, chuyển nhượng tài sản, kể cả anh em ruột thịt. Tuy nhiên, điều đáng trách là sau khi rút đơn một thời gian, ông N và một số người khác lại viết đơn tố cáo tiếp ông B với nội dung, không phải ông B lừa ông N, mà ông B lừa bà Đ(!?).
Theo Luật Tố cáo, nếu viết đơn tố cáo không đúng sự thật thì người tố sai sự thật sẽ bị xử lí hành vi vu cáo của mình.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân, chấm dứt việc tố cáo không có căn cứ, đề nghị các cơ quan chức năng khẩn trương giải quyết vụ việc trên.
Tác giả: Hữu Mai
Nguồn tin: ngaymoionline.vn