Kiểm toán Nhà nước vừa có báo cáo gửi Quốc hội báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm 2021, trong đó chỉ ra nhiều vấn đề khi thực hiện kiểm toán các tập đoàn, tổng công ty và công ty.
Sử dụng dòng tiền hoặc quản lý dòng tiền chưa hiệu quả, nợ phải thu khó đòi lớn
Theo báo cáo, năm 2021, KTNN đã kiểm toán báo cáo tài chính và các hoạt động liên quan đến quản lý, sử dụng vốn Nhà nước năm 2020 của 73 doanh nghiệp thuộc 16 tập đoàn, tổng công ty và công ty.
Kết quả cho thấy một số tập đoàn, tổng công ty, công ty được kiểm toán sản xuất kinh doanh có lãi; tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu tại một số đơn vị đạt tương đối cao.
Bên cạnh đó, cơ quan kiểm toán cũng đã vạch ra một số hạn chế, tồn tại trong việc quản lý sử dụng vốn, tài sản của các doanh nghiệp được kiểm toán.
Cụ thể theo báo cáo, một số đơn vị chưa xây dựng quy chế quản lý tiền, định mức tồn quỹ tiền mặt/tiền gửi ngân hàng, kế hoạch sử dụng dòng tiền hoặc quản lý dòng tiền chưa hiệu quả.
Trong đó, ở PVGAS, công ty mẹ chưa cân đối dòng tiền từ các hợp đồng tiền gửi đến ngày đáo hạn khi xây dựng kế hoạch dòng tiền tháng/quý; Công ty mẹ, Công ty CP Phân phối Khí thấp áp Dầu khí Việt Nam, Công ty CP CNG Việt Nam để số dư tiền gửi không kỳ hạn vượt định mức, chuyển tiếp cùng kỳ hạn nhiều hợp đồng tiền gửi từ 3 đến 9 tháng.
Còn Công ty CP Phân phối Khí thấp áp Dầu khí Việt Nam và Công ty CP Kinh doanh LPG Việt Nam chưa chào lãi suất đến các tổ chức tín dụng khi gửi tiền.
Tại VNPT, Công ty mẹ gửi số tiền lớn nhiều kỳ hạn ngắn liên tiếp (gửi 10.700 tỷ đồng kỳ hạn 6, 7, 8 tháng và tiếp tục gửi kỳ hạn 4, 5, 6 tháng; gửi 960 tỷ đồng 2 lần kỳ hạn 06 tháng…), VNPT Vinaphone chưa gửi có kỳ hạn tiền chênh lệch thu chi hàng ngày.
Công ty mẹ - VNS duy trì số dư tiền gửi không kỳ hạn ở mức cao (trên 63 tỷ đồng/ngày, giai đoạn 12/10/2020 đến 28/12/2020 trên 152 tỷ đồng/ngày), chưa chào lãi suất đến các tổ chức tín dụng khi gửi tiền.
Kiểm toán Nhà nước cũng nêu ra một số doanh nghiệp quản lý nợ chưa chặt chẽ, còn để phát sinh nợ phải thu quá hạn, khó đòi lớn (Ảnh: Mạnh Quân). |
Còn tại Vinachem, Công ty CP Phân lân nung chảy Văn Điển chưa xây dựng tiêu chí lựa chọn ngân hàng, chào lãi suất đến các tổ chức tín dụng khi gửi tiền.
Kiểm toán Nhà nước cũng nêu ra một số doanh nghiệp quản lý nợ chưa chặt chẽ, còn để phát sinh nợ phải thu quá hạn, khó đòi lớn. Tại Công ty mẹ - MobiFone có 724,21 tỷ đồng, phần lớn là khoản công nợ của khách hàng cá nhân; PVGAS: Công ty mẹ 568,78 tỷ đồng, Công ty CP Phân phối Khí thấp áp Dầu khí Việt Nam 16,16 tỷ đồng; VNPT Vinaphone (Ban Khách hàng Tổ chức doanh nghiệp) 35,55 tỷ đồng.
Một số doanh nghiệp bán hàng, đặt cọc cho nhà cung cấp không có bảo lãnh hoặc vượt giá trị tài sản thế chấp, bảo lãnh hoặc ký hợp đồng với khách hàng chưa chặt chẽ; trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi, xóa nợ, trích khấu hao tài sản cố định không đúng quy định...
Còn một số công trình xây lắp hoàn thành nhiều năm chưa được nghiệm thu, quyết toán như Công ty CP Đầu tư và Xây dựng HUD 3 là 46,64 tỷ đồng (Công trình Hệ thống thoát nước Bắc Ninh 15,98 tỷ đồng, Công trình Phần thô nhà công vụ cơ khí Quang Trung 24,73 tỷ đồng, Công trình Hạ tầng cụm KCN Đồng Mai 0,32 tỷ đồng, Công trình Kết cấu và hoàn thiện hỗn hợp tòa nhà HH1 Chúc Sơn 5,61 tỷ đồng); Công ty TNHH MTV Dịch vụ nhà ở và khu đô thị 1,02 tỷ đồng (Công trình Lô cây xanh CX 06 tại Khu đô thị mới Việt Hưng 0,81 tỷ đồng, Công trình Hạ tầng kỹ thuật Khu đô thị Phú Mỹ 0,21 tỷ đồng).
Thua lỗ lớn
Kiểm toán Nhà nước cũng nêu tên một số đơn vị đầu tư không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp, thua lỗ lớn; một số khoản đầu tư của tập đoàn, tổng công ty vào công ty liên kết, đầu tư dài hạn khác bị thua lỗ, mất vốn; chưa nộp kịp thời tiền thu về cổ phần hóa.
Trong đó, Công ty mẹ - Vinachem có 5/22 công ty con lỗ lũy kế đến cuối năm 2020 là 15.473,64 tỷ đồng và 1 công ty con đang dừng hoạt động.
Công ty mẹ - VNS: 4 công ty con, 5 công ty liên kết và 3 khoản đầu tư khác lỗ lũy kế hơn 898 tỷ đồng, trong đó 2 đơn vị đang tạm dừng hoạt động.
Ở Công ty CP Gang thép Thái Nguyên, 3 công ty con, liên kết không hoạt động, không có khả năng phục hồi sản xuất. Còn Công ty mẹ - PVGAS: 2/6 công ty con lỗ lũy kế 602,37 tỷ đồng;
Công ty mẹ - Petrolimex: Công ty TNHH MTV Petrolimex Lào lỗ lũy kế 114,82 tỷ đồng, âm vốn chủ sở hữu 57 tỷ đồng;
TCT Điện lực TKV: Công ty CP Nhiệt điện Cẩm Phả lỗ lũy kế 1.771 tỷ đồng; Công ty mẹ - VNPT: 2 công ty con, liên doanh lỗ lũy kế 78,8 tỷ đồng; PVCFC: Công ty CP Bao bì Dầu khí Việt Nam lỗ năm 2019 và năm 2020 là 8,6 tỷ đồng.
Công ty mẹ - PVFCCo: 2/3 công ty liên kết lỗ lũy kế tại 31/12/2020 là 6.474 tỷ đồng, 1/2 khoản đầu tư dài hạn khác lỗ năm 2020 là 45,47 tỷ đồng.
Công ty mẹ - HUD: 4/5 công ty liên kết, đầu tư khác lỗ năm 2019 và năm 2020 là hơn 55 tỷ đồng.
Vinachem: Công ty mẹ (2/9 công ty liên kết lỗ lũy kế 123,69 tỷ đồng), Công ty TNHH MTV Apatit Việt Nam (2/5 khoản đầu tư phải trích lập dự phòng 95,25 tỷ đồng), Công ty CP Phân bón và Hóa chất Cần Thơ (một khoản đầu tư phải trích lập dự phòng 9,83 tỷ đồng);
Công ty mẹ - PVGAS: Một trong 2 công ty liên kết lỗ năm 2020 là 47,41 tỷ đồng; Petrolimex: TCT Gas Petrolimex - CTCP (một khoản), Petajico Hà Nội - TCT Dịch vụ Xăng dầu Petrolimex (2 khoản), TCT Hóa dầu Petrolimex - CTCP (một khoản), Công ty CP Vận tải Xăng dầu Vipco - TCT Vận tải thủy Petrolimex (4 khoản) phải trích lập dự phòng tổng cộng 132,37 tỷ đồng; Công ty mẹ - VNPT: 2 khoản đầu tư tại các đơn vị đang trong quá trình giải thể, phá sản tiềm ẩn rủi ro mất vốn.
Tác giả: Nguyễn Mạnh
Nguồn tin: Báo Dân trí