Từ 1/7/2020, bổ sung 4 trường hợp công chức bị kỷ luật không được áp dụng thời hiệu. (Ảnh minh họa) |
Thời hiệu xử lý kỷ luật công chức đến 5 năm
Hiện nay, thời hiệu xử lý kỷ luật đang được quy định 24 tháng kể từ thời điểm có hành vi vi phạm và được định nghĩa theo quy định tại Điều 80 Luật Cán bộ, công chức hiện hành như sau: Là thời hạn do Luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì cán bộ, công chức có hành vi vi phạm không bị xem xét xử lý kỷ luật.
Điều này đồng nghĩa với việc, nếu hành vi vi phạm không bị phát hiện trong 24 tháng thì hết thời gian này, công chức sẽ không bị xử lý kỷ luật nữa. Đây có thể coi là “ưu ái” dành cho mọi công chức.
Chính phủ hướng dẫn thời hiệu xử lý kỷ luật được tính từ thời điểm công chức có hành vi vi phạm pháp luật cho đến khi người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra thông báo bằng văn bản về việc xem xét xử lý kỷ luật (Điều 6 Nghị định 34/2011/NĐ-CP).
Do vậy, khi phát hiện hành vi vi phạm của công chức, người có thẩm quyền phải ra thông báo bằng văn bản và phải nêu rõ thời điểm công chức có hành vi vi phạm, thời điểm phát hiện và thời hạn xử lý kỷ luật.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy để phát hiện và xử lý trong thời gian 24 tháng là quá ít nên Luật sửa đổi đã kéo dài thời hiệu này:
- 2 năm với các vi phạm ít nghiêm trọng mà chỉ bị xử lý kỷ luật bằng hình thức khiển trách.
- 5 năm với các hành vi vi phạm còn lại.
Như vậy, việc kéo dài thời hiệu lên đến 5 năm đã cho thấy sự phân cấp các mức độ vi phạm kỷ luật, tránh hiện tượng “cào bằng” khi áp dụng các hình thức kỷ luật.
Bổ sung 4 trường hợp công chức bị kỷ luật không được áp dụng thời hiệu
Không chỉ kéo dài thời hiệu kỷ luật công chức, Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức số 52/2019/QH14 có hiệu lực từ 1/7/2020 cũng “siết chặt” hơn với các hành vi vi phạm thông qua việc bổ sung 4 trường hợp không áp dụng thời hiệu xử lý kỷ luật với công chức, gồm:
- Công chức là Đảng viên mà vi phạm kỷ luật đến mức bị khai trừ khỏi Đảng nêu tại Quy định 102-QĐ/TW: Tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh việc kê khai tài sản, thu nhập; Dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng; Đưa, nhận, môi giới hối lộ; Vi phạm quy định về cấm kết hôn, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng…
- Vi phạm quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ: Bảo vệ Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, bảo vệ Hiến pháp và pháp luật Nhà nước, bảo vệ cán bộ, Đảng viên, ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, Đảng viên…
- Xâm hại đến lợi ích quốc gia trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
- Sử dụng văn bằng, chứng chỉ, giấy chứng nhận, xác nhận giả hoặc không hợp pháp.
Có thể thấy nếu áp dụng thời hiệu trong 4 trường hợp trên đồng nghĩa với việc sẽ bỏ qua những hành vi vi phạm vô cùng nghiêm trọng. Do đó, quy định mới này hoàn toàn phù hợp và đúng đắn trong công tác tổ chức cán bộ.
Công chức nghỉ hưu có thể bị kỷ luật “xóa tư cách chức vụ”
Một trong những nội dung đáng chú ý của Luật sửa đổi lần này là việc bổ sung thêm 01 hình thức xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức. Đặc biệt nhấn mạnh việc sau khi đã nghỉ việc, nghỉ hưu, cán bộ, công chức vẫn có thể bị xử lý bằng hình thức “xóa tư cách chức vụ đã đảm nhiệm”.
Theo đó, tại khoản 7 Điều 1 Luật này nêu rõ, sau khi nghỉ việc hoặc nghỉ hưu mới phát hiện có hành vi vi phạm trong thời gian công tác thì tùy vào tính chất, mức độ sẽ phải chịu một trong các hình thức xử lý kỷ luật là: Khiển trách, cảnh cáo, xóa tư cách chức vụ đã đảm nhiệm.
Đặc biệt, việc xử lý kỷ luật này gắn với hệ quả pháp lý tương ứng của hành vi vi phạm.
Ngoài ra, Luật sửa đổi cũng nói rõ, cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu trước có hành vi vi phạm trong thời gian công tác trước ngày 1/7/2020 cũng được thực hiện theo quy định của Luật này.
Tác giả: Hoàng Mai
Nguồn tin: Báo Người đưa tin