Theo khảo sát mới nhất của Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, 10 tỉnh có tỷ lệ mất cân bằng GTKS cao nhất là Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Nam Định, Hòa Bình, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Quảng Ngãi. Theo Viện này, hệ lụy xã hội của việc mất cân bằng GTKS sẽ dẫn đến thừa nam thiếu nữ, đặc biệt thiếu ở độ tuổi kết hôn.
Khi đó, nam giới sẽ khó lấy vợ, khiến nhiều người kết hôn muộn, hoặc không kết hôn; làm thay đổi cấu trúc dân số; tan vỡ cấu trúc gia đình, tỷ lệ ly hôn, tái hôn của phụ nữ tăng cao. Điều này còn kéo theo hệ lụy về an ninh trật tự khi làm tăng tệ nạn mại dâm, HIV/AIDS, buôn bán phụ nữ, trẻ em, tăng bạo hành gia đình, tăng bất bình đẳng giới. Bên cạnh đó là một số ngành nghề sẽ bị thiếu hụt lao động như giáo viên mầm non, tiểu học, hộ lý, y tá…
Kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới cho hay, quan điểm nhất thiết phải có con trai phổ biến ở hơn ở nhóm tuổi cao, nhóm có trình độ học vấn thấp hơn.
Còn theo nghiên cứu của Vụ thống kê Dân số và Lao động (Tổng cục Thống kê) thì tỷ số GTKS tại Việt Nam đang có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Tuy nhiên, xu hướng này xảy ra không giống nhau tại tất cả các vùng.
Trong khi tại khu vực thành thị, tỉ số GTKS giảm thì ở khu vực nông thôn lại tăng lên. Tỉ số GTKS tăng tại 4 vùng là trung du và miền núi phía Bắc; đồng bằng sông Hồng, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Nhất là tại Trung du và miền núi phía Bắc tăng từ 108,5 lên 116,1 và ở đồng bằng sông Cửu Long tăng từ 109,9 lên 114,1. Trong khi ở Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ, TSGTKS giảm rõ nét, từ 109,7 xuống 105,5).
Điều ngạc nhiên được Vụ thống kê Dân số và Lao động chỉ ra còn là trình độ học vấn của phụ nữ càng tăng, thì tỉ số GTKS cũng tăng lên: từ mức 106 đến 111 ở bậc tiểu học, đến mức 113 ở bậc trung học phổ thông, và cuối cùng là 115 ở bậc đại học trở lên.
Còn nhóm những bà mẹ chỉ có 3 năm đi học, tỉ số GTKS tương tự mức sinh học tự nhiên là 105. Tuy nhiên, tỉ số GTKS tăng lên mức 108, 111 và 112 trong các nhóm bà mẹ có trình độ học vấn cao hơn. Đỉnh điểm là 113 trong nhóm các bà mẹ có 12 năm đi học hoặc hơn.
Tỷ số GTKS cao ngay trong lần sinh đầu tiên và đặc biệt tăng cao trong lần sinh thứ ba. Tỷ số GTKS của lần sinh đầu tiên và lần sinh thứ 2 khi chưa có con trai ở mức khá giống nhau. Nhưng đặc biệt mất cân bằng xảy ra tại lần sinh thứ 3 khi chưa có con trai.
Áp lực bắt buộc phải có con trai được thể hiện một cách mạnh mẽ nhất. Tỷ số GTKS tăng lên rất cao (120,2 trẻ em trai/100 trẻ em gái), đặc biệt là với các cặp vợ chồng chưa có con trai (148,4 trẻ em trai/100 trẻ em gái).
Tỷ lệ sử dụng các biện pháp để sinh con trai cao hơn ở nhóm dân tộc Kinh so với nhóm dân tộc thiểu số, ở nhóm có mức sống khá giàu cao người nghèo.
Theo các chuyên gia, vấn đề đặt ra hiện nay là vẫn tồn tại tâm lý thích sinh con trai ở nhiều người do sự mong đợi khác biệt về vai trò của con trai và con gái, đồng thời, tồn tại thực trạng sử dụng các biện pháp để sinh con trai ở những người khá giả, học vấn cao, có tâm lý thích sinh con trai.
Lý giải nguyên nhân của việc mất cân bằng GTKS cao, các chuyên gia cho rằng đó một phần là do truyền thống và phong tục của Việt Nam ưa chuộng con trai hơn con gái. Giảm sinh là xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển đã tác động trực tiếp tới việc quyết định số con của mỗi cặp vợ chồng.
Giáo sư Youngtae Cho (Đại học Quốc gia Seoul, Trường Y tế Công cộng Hàn Quốc) chia sẻ kinh nghiệm: Khi tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh/trẻ em còn cao, mà mọi người vẫn chỉ muốn có 2 con thì họ hy vọng có ít nhất 2 con trai, để nếu có chuyện gì xảy ra với đứa con trai đầu lòng thì đứa con thứ 2 có thể thay thế.
Giải pháp của Hàn Quốc là ra quy định về các dịch vụ y tế có mục đích đọc/xác định giới tính thai nhi và những trường hợp vi phạm có thể sẽ bị rút giấy phép, thậm chí, áp dụng phạt hành chính hoặc/và bỏ tù. Bên cạnh đó, Hàn Quốc tiến hành các chiến dịch truyền thông và giáo dục mạnh mẽ.
Các biện pháp đồng bộ nhằm tạo sự thay đổi để người Hàn Quốc coi trọng con trai và con gái như nhau, đặc biệt coi trọng về cơ hội giáo dục, tạo những thay đổi trong mối quan hệ giữa mẹ chồng và con dâu; con dâu có trình độ học vấn cao hơn và có thể độc lập ra những quyết định lớn. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh/trẻ em rất thấp nên người Hàn Quốc thấy rằng không cần thiết phải có 2 con!
Giáo sư Youngtae Cho còn cho rằng cần thế tục hóa các giá trị truyền thống: tại sao nhiệm vụ gia đình lại chỉ dành riêng cho con trai, nhất là trên thực tế, nhiệm vụ trong gia đình đã yếu đi! Một bài học từ kinh nghiệm thực tiễn về vai trò của con trai và con gái là “Con trai hỏi tiền, con gái mang tiền” cũng giúp các gia đình Hàn Quốc dần thay đổi quan niệm.
Theo giáo sư Youngtae Cho, Việt Nam có thể đạt được mong muốn cân bằng GTKS khi tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh/trẻ em đã được cải thiện và con gái được đối xử gần như là bình đẳng với con trai ở các tỉnh/thành trên toàn quốc! Bên cạnh đó, người Việt Nam giờ cũng đã học được bài học thực tế là con trai thường đòi hỏi ở cha mẹ trong khi con gái thường mang lại cho cha mẹ.
Tác giả bài viết: Thanh Hằng
Nguồn tin: