PGS.TS Nguyễn Thu Thuỷ, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, Bộ GD&ĐT cho biết, quy chế 08 về tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ ban hành từ năm 2017, trước khi Luật giáo dục đại học sửa đổi. Do vậy, một số quy định trong quy chế không còn phù hợp với quy định trong luật.
Bên cạnh đó, sau 4 năm thực hiện quy chế 08, một số quy định trong quy chế cần điều chỉnh để đảm bảo phù hợp với thực tế triển khai, nâng cao tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở đào tạo trong việc bảo đảm chất lượng đào tạo tiến sĩ.
Điển hình như quy định về người học, về người hướng dẫn, về thành viên các hội đồng đánh giá, việc tổ chức tuyển sinh, quản lý đào tạo (học chính quy, học trực tuyến, công nhận khối kiến thức đã tích lũy, bảo lưu kết quả học tập…).
Đó là lý do Bộ GD&ĐT xây dựng và ban hành quy chế mới này để kế thừa những quy định tích cực và khả thi gắn với thực tế triển khai hoạt động đào tạo trình độ tiến sĩ, đồng thời khắc phục một số hạn chế trong thực tiễn triển khai.
PGS.TS Nguyễn Thu Thuỷ, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, Bộ GD&ĐT. |
Theo Vụ trưởng, quy chế mới chú trọng đến tăng cường quy định bảo đảm liêm chính học thuật, học thật, nghiên cứu thật và nhấn mạnh vào vai trò tự chủ, trách nhiệm giải trình của trường đại học. Những điều chỉnh khoa học, khách quan và công bằng trong đào tạo trình độ tiến sĩ được quy chế mới nêu rõ.
Thứ nhất, để mở rộng tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở đào tạo tiến sĩ theo Luật giáo dục đại học, quy chế mới giảm thiểu những nội dung hướng dẫn chi tiết, thay vào đó, yêu cầu cơ sở đào tạo cụ thể hóa quy trình và thủ tục liên quan.
Thứ hai, quy chế bổ sung minh chứng về trình độ ngoại ngữ (sử dụng các chứng chỉ quốc gia theo khung ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam bên cạnh những chứng chỉ được quốc tế công nhận như IELTS, TOEFL,…).
Các bài báo, báo cáo khoa học trong danh mục tạp chí World of Sciences (WoS) và Scopus vẫn là yêu cầu để minh chứng cho kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu khoa học của người hướng dẫn và đầu ra của nghiên cứu sinh.
Quy chế bổ sung việc chấp nhận các sách chuyên khảo, các công bố tại các tạp chí trong nước có chất lượng tốt theo tiêu chuẩn đánh giá của Hội đồng Giáo sư nhà nước. Các ghi nhận chỉ áp dụng nếu là tác giả chính.
Quy chế cũng cho phép thay thế các công bố nghiên cứu khoa học bằng những kết quả nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ đã đăng ký và được cấp bằng độc quyền sáng chế quốc gia hoặc quốc tế; hoặc giải thưởng chính thức của cuộc thi quốc gia hoặc quốc tế trong lĩnh vực nghệ thuật và nhóm ngành thể dục, thể thao, được công nhận bởi cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
Quy chế cũng tăng số lượng nghiên cứu sinh/người hướng dẫn trong cùng thời gian. Cụ thể, giáo sư được hướng dẫn độc lập tối đa 7 nghiên cứu sinh; phó giáo sư hoặc tiến sĩ khoa học được hướng dẫn độc lập tối đa 5 nghiên cứu sinh; tiến sĩ được hướng dẫn độc lập tối đa 3 nghiên cứu sinh. Trường hợp đồng hướng dẫn 1 nghiên cứu sinh được tính quy đổi tương đương hướng dẫn độc lập 0,5 nghiên cứu sinh.
Các mốc thời gian đào tạo tiến sĩ cũng được thay đổi so với trước để đáp ứng yêu cầu đào tạo thực tiễn. Theo đó, tổng thời gian đào tạo tiêu chuẩn là từ 3 đến 4 năm. Tổng thời gian học tập nghiên cứu trước khi trình hồ sơ thực hiện quy trình phản biện độc lập và bảo vệ cấp cơ sở là 6 năm. Thời hạn để hoàn thành các thủ tục bảo vệ luận án ở cơ sở sau thời gian này là từ 6 tháng đến 1 năm theo tình hình thực tế do cơ sở đào tạo quyết định.
Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học nhấn mạnh, đào tạo tiến sĩ là bậc đào tạo cao nhất trong giáo dục đại học và trong hệ thống giáo dục quốc dân, là đào tạo tinh hoa, đào tạo những nhà khoa học, những nhà nghiên cứu. Do đó, việc đào tạo phải chuẩn từ chất lượng đầu vào, đảm bảo cơ chế có sàng lọc trong quá trình đào tạo và đạt chuẩn chất lượng đầu ra, cũng như phải có tính hội nhập trong bối cảnh quốc tế hóa hiện nay.
Tác giả: Hà Cường
Nguồn tin: vtc.vn