Nghệ An 24h

http://nghean24h.vn


Nghệ An: Gỡ khó trong phát triển mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác vùng dân tộc thiểu số và miền núi

Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS và MN), giai đoạn I (2021-2025) đã và đang hỗ trợ các dự án liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản, với mục tiêu tạo đột phá trong việc nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm nông nghiệp tại tỉnh Nghệ An.

Vẫn còn nhiều điểm “nghẽn” trong phát triển mô hình hợp tác xã, kinh tế tập thể

Giai đoạn 2021–2025, toàn tỉnh Nghệ An thành lập mới 200 Hợp tác xã (HTX), trong đó có 160 HTX nông nghiệp, 35 HTX dịch vụ thương mại... Các loại hình HTX phát triển đa dạng, góp phần phát triển kinh tế và an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh, đặc biệt tại vùng đồng bào DTTS và MN.

Thông qua các hình thức hợp tác, liên kết đã tạo thêm điều kiện cho các HTX, THT, thành viên, hộ gia đình có thêm nguồn lực để đầu tư hạ tầng, phương tiện máy móc phục vụ sản xuất, chế biến, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và kết nối, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đã có rất nhiều mô hình HTX trên địa bàn tỉnh thực hiện việc hợp tác, liên kết có hiệu quả. Trên mảng sản xuất, chế biến lúa, gạo, nhiều HTX hợp tác, liên kết có hiệu quả (từ việc cung cấp dịch vụ, đưa cơ giới hóa vào sản xuất, đến việc bảo quản, kết nối tiêu thụ, xây dựng thương hiệu về sản phẩm…) như: HTX Nông nghiệp và dịch vụ tổng hợp Thọ Thành, HTX Nông nghiệp và dịch vụ Liên Thành, HTX Dịch vụ nông nghiệp và xây dựng Minh Thành, HTX Nông nghiệp và dịch vụ Diễn Đồng… Nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, các sản phẩm nông nghiệp của tỉnh Nghệ An đã gia tăng đáng kể cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu thị trường đa dạng.

 Bà con dân tộc Thái xã Châu Kim, Nghệ An thu hoạch giống lúa nếp khau cày nọi. Ảnh: T.Tuệ

Nhìn nhận một cách khách quan, dù đạt được những thành tựu nhất định về số lượng và sự đa dạng hóa, hoạt động của các HTX trên địa bàn tỉnh vẫn đang phải đối diện với nhiều rào cản, "điểm nghẽn”. Mặc dù có số lượng HTX lớn so với mặt bằng chung của cả nước nhưng chất lượng và tính bền vững của các mô hình liên kết tại Nghệ An vẫn còn nhiều hạn chế. Những thách thức này không chỉ tồn tại ở quy mô sản xuất mà còn ăn sâu vào năng lực quản trị, tư duy liên kết và sự thiếu đồng bộ của hệ thống hỗ trợ.

Phần lớn các HTX nông nghiệp tại Nghệ An có quy mô nhỏ, dẫn đến năng lực sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm còn thấp. Việc thiếu vốn, thiếu cơ sở hạ tầng sơ chế và chế biến hiện đại làm cho nông sản khó đạt được giá trị gia tăng cao. Các sản phẩm tuy đa dạng về chủng loại nhưng không tạo được sức mạnh cạnh tranh trên thị trường lớn, thiếu sự đồng đều về số lượng và chất lượng. Việc bảo quản sau thu hoạch còn yếu kém cũng là nguyên nhân làm giảm chất lượng và tăng tổn thất nông sản.

Tính hợp tác, liên kết trong nội bộ các HTX và giữa các HTX với nhau nhiều nơi chưa cao. Vẫn còn tồn tại một số mô hình liên kết thiếu tính bền vững. Điều đáng quan ngại là nhiều HTX, thành viên và hộ gia đình chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của sự liên kết theo chuỗi giá trị. Tâm lý sản xuất nhỏ lẻ, thiếu yên tâm và sẵn sàng tham gia liên kết, nhất là liên kết đa HTX trên cùng một dòng sản phẩm (như lúa gạo, chè, dược liệu), vẫn là rào cản lớn. Sự thiếu mạnh dạn trong việc đầu tư, liên kết để thực hiện các nhiệm vụ sản xuất, chế biến và tiêu thụ chung đã làm mất đi cơ hội tạo ra quy mô đủ lớn để đàm phán với thị trường và doanh nghiệp.

Tại các xã như Hữu Kiệm, Mường Lống, Huồi Tụ, Na Loi, Nậm Cắn… nhiều sản phẩm của đồng bào như gạo nếp nương, gà đen, lợn đen, mận, đào, chè, gừng... tiêu thụ chủ yếu phụ thuộc vào các kênh truyền thống như chợ, các thương lái...

Theo lãnh đạo địa phương, nhận thức của người sản xuất về chuỗi giá trị sản phẩm chưa cao, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, chưa đáp ứng đủ các tiêu chuẩn, chất lượng của đơn vị liên kết. Mặt khác, do đặc điểm của khu vực còn mang tính sản xuất tự cung – tự cấp cao nên nhu cầu của thị trường về các chuỗi liên kết trong sản xuất và tiêu thụ chưa nhiều.

Hoạt động sản xuất, chế biến và tiêu thụ của người dân, HTX và doanh nghiệp còn thiếu thông tin chính xác, kịp thời về thị trường. Trong khi đó, công tác định hướng sản xuất, quy hoạch vùng nguyên liệu tập trung, cùng với việc xây dựng hệ thống thông tin, thống kê, và dự báo của các ngành chức năng còn nhiều hạn chế. Sự thiếu hụt này dẫn đến tình trạng sản xuất bị động, dễ rơi vào vòng luẩn quẩn của "được mùa mất giá," ảnh hưởng tiêu cực đến niềm tin và sự tham gia của các thành viên vào HTX.

Mặc dù có nhiều chính sách hỗ trợ, nhưng một số nội dung còn thiếu, chưa phù hợp hoặc thiếu tính thực tiễn trong việc thu hút sự tham gia mạnh mẽ của doanh nghiệp vào phát triển liên kết chuỗi. Đặc biệt, các chính sách hỗ trợ sau đầu tư, tập trung vào khâu sơ chế, chế biến, nhãn mác, truy xuất nguồn gốc và bảo quản sản phẩm, còn chưa đủ mạnh để khuyến khích các HTX nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường.

Nâng cao nhận thức và năng lực liên kết

Để khắc phục những khó khăn và phát triển có hiệu quả các hình thức liên kết, hợp tác theo chuỗi giá trị nông sản tại Nghệ An, cần có sự vào cuộc đồng bộ và quyết liệt, dựa trên nền tảng thể chế vững chắc và ứng dụng khoa học công nghệ.

Trước hết, cần quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 20 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII và Luật Hợp tác xã 2023 đến mọi cấp quản lý và người dân. Đẩy mạnh tuyên truyền đa dạng hóa về vai trò của kinh tế hợp tác, nhằm nâng cao nhận thức, tạo sự yên tâm cho thành viên khi tham gia liên kết. Đặc biệt, cần rà soát, bổ sung các cơ chế, chính sách hỗ trợ sau đầu tư một cách thiết thực hơn. Các chính sách cần tập trung vào khâu tạo ra giá trị gia tăng (sơ chế, chế biến, nhãn mác hàng hóa, truy xuất nguồn gốc) để khuyến khích HTX và nông dân tập trung đầu tư hình thành vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho doanh nghiệp.

Đẩy mạnh việc ứng dụng đồng bộ các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào toàn bộ chuỗi giá trị. Các thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ sinh học, cơ giới hóa, tự động hóa và kinh tế tuần hoàn phải được áp dụng từ khâu sản xuất, sơ chế, đóng gói đến chế biến. Xây dựng cơ chế khuyến khích đầu tư vào các trang trại quy mô lớn, sản xuất theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao nhằm tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh đăng ký và quản lý mã số vùng sản xuất, ứng dụng đồng bộ các công nghệ mới để vượt qua rào cản kỹ thuật của các thị trường xuất khẩu tiềm năng.

Yếu tố then chốt là việc thiết lập hệ sinh thái quản trị chuỗi giá trị với sự phân vai rõ ràng của các bên liên quan. Cấp ủy, chính quyền cấp xã, phường phải tăng cường quản lý nhà nước về quy hoạch, vận động người dân tham gia sản xuất tập trung theo quy hoạch. HTX chuyên ngành phải phát huy vai trò là đầu mối tiếp nhận và chuyển giao ứng dụng kỹ thuật mới cho thành viên.

Quan tâm hơn nữa công tác bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản trị điều hành của các HTX. Đào tạo cần tập trung vào việc xây dựng chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh, và kỹ năng đàm phán hợp đồng. Đồng thời, cần nâng cao nhận thức và năng lực liên kết đa chiều giữa hộ nông dân, thành viên HTX, THT và doanh nghiệp để tạo sự đồng bộ, hiệu quả trong việc sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Mục tiêu cuối cùng là xây dựng một hệ thống kinh tế tập thể vững mạnh, có khả năng tự chủ, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp và tốc độ tăng trưởng giá trị, thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ của Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Tác giả: V.A

Nguồn tin: daibieunhandan.vn