Nghệ An 24h

http://nghean24h.vn


Tuyên ngôn Độc lập và hành trình kiến tạo nhà nước pháp quyền vì nhân dân ở Việt Nam

Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Không chỉ khẳng định nền độc lập dân tộc, văn kiện lịch sử này còn đặt nền móng tư tưởng và pháp lý cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Tư tưởng về nhà nước pháp quyền

TS Nguyễn Thị Thu Huyền, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng, trong Tuyên ngôn Độc lập mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh không có bất kỳ từ nào nhắc đến “nhà nước pháp quyền”, “nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, nhưng nghiên cứu kĩ Tuyên ngôn Độc lập, chúng ta sẽ thấy trong đó chứa đựng những tư tưởng, quan điểm, mong muốn về một nhà nước kiểu mới dựa trên ý chí và nguyện vọng của nhân dân.

 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập trong ngày 2/9/1945. (Nguồn: Tư liệu TTXVN)

Đó là những tư tưởng về nhà nước độc lập, tự do; một nhà nước tôn trọng pháp luật, được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Ngay từ những ngày đầu hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một tầm nhìn sâu sắc về nhà nước pháp quyền. Người nhận thức rõ tầm quan trọng của pháp luật trong việc quản lý xã hội và đã sớm hình dung ra một nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên nền tảng pháp luật tiến bộ. Qua tiếp xúc với nền văn minh Âu - Mỹ và tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận rằng, pháp luật là công cụ pháp lý quan trọng để quản lý xã hội một cách hiệu quả. Người đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng một nhà nước pháp quyền, nơi mà mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.

Trong Tuyên ngôn Độc lập, tư tưởng này đã được thể hiện rõ khi Người dẫn chứng các “quyền” trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của nước Pháp năm 1789, đó là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Những dẫn chứng này thể hiện nền tảng quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nhà nước pháp quyền trên nền móng độc lập dân tộc và chủ quyền nhân dân.

 Niềm vui của người dân trong những ngày đất nước kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9.

“Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 không chỉ là tuyên bố về độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn là cơ sở nền tảng tư tưởng, pháp lý quan trọng cho việc kiến tạo Nhà nước pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam. Nhà nước kiểu mới ấy phải là một nhà nước mà nhân dân chính là chủ nhân tối cao, mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; Nhà nước ấy phải được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, do nhân dân lập nên thông qua các cơ quan đại diện của mình; mục tiêu cao nhất của nhà nước là phục vụ nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, mọi chính sách, pháp luật và hoạt động của nhà nước đều hướng tới mục tiêu nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, được thể hiện bằng thực chất cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân”, TS Nguyễn Thị Thu Huyền phân tích.

 Niềm hạnh phúc của những đứa trẻ được sinh ra trong thời bình.

GS.TS Tạ Ngọc Tấn, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng lý luận Trung ương, nguyên Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng, Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là lời tuyên bố chính trị mà còn là văn bản pháp lý nền tảng, mang tính hiến định đầu tiên, xác lập chủ quyền quốc gia và nguyên tắc dân chủ, bình đẳng, tự do của Nhà nước mới. Việc thiết lập chính thể cộng hòa, một nhà nước dân chủ nhân dân đã đánh dấu sự thay đổi căn bản về thể chế từ thuộc địa nửa phong kiến chuyển sang nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện có giá trị như một tuyên bố thể chế, khẳng định “quyền tự quyết dân tộc và quyền làm chủ của Nhân dân”, đồng thời đặt nền móng cho việc xây dựng một hệ thể chế quốc gia độc lập trên cơ sở quyền lực thuộc về nhân dân.

Trên phương diện lập quốc, PGS, TS Nguyễn Văn Thế, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng chỉ rõ: “Không chỉ là sản phẩm của cách mạng, Tuyên ngôn Độc lập đã hợp thức hóa quyền lực cách mạng thành quyền lực nhà nước. Tuyên ngôn không chỉ tuyên bố mà là chuyển đổi quyền lực chính trị theo mô thức hợp pháp và quốc tế hóa. Quan trọng hơn nữa, Tuyên ngôn độc lập trở thành văn kiện mang tính “hiến định”, đặt nền móng cho nhà nước pháp quyền hiện đại. Lần đầu tiên trong lịch sử, quyền lực nhà nước được khẳng định thuộc về toàn thể nhân dân”.

Sự vận dụng của Đảng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN

Tư tưởng pháp quyền xã hội chủ nghĩa, được thể hiện nền tảng trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đã được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa và phát triển thành một định hướng nhất quán trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị.

Dấu mốc đầu tiên có tính lịch sử là tại Đại hội VI của Đảng (1986) nơi khởi xướng công cuộc Đổi mới toàn diện, khẳng định vai trò của Nhà nước như công cụ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, được tổ chức bởi giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đây là nền tảng để nhận thức về nhà nước pháp quyền dần trở nên rõ ràng và có tính hệ thống.

Đặc biệt, tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), khái niệm “Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” lần đầu tiên được sử dụng chính thức, khẳng định một bước tiến trong tư duy quản lý xã hội bằng pháp luật - một phương thức quản trị hiện đại và hiệu quả. Các Đại hội tiếp theo của Đảng như Đại hội IX (2001), X (2006) và XI (2011) tiếp tục củng cố quan điểm này, nhấn mạnh quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân và đặt ra nguyên tắc kiểm soát quyền lực pháp luật. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bổ sung năm 2011 đã mô tả rõ nét hình mẫu Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, với liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.

 Buổi tổng duyệt diễu binh, diễu hành​​​​​​ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội vào sáng 30/8.

Hiến pháp 2013 trở thành văn kiện pháp lý quan trọng, thể hiện tư tưởng đổi mới của Đảng về mô hình nhà nước pháp quyền, thượng tôn pháp luật và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tiếp nối đó, Đại hội XII (2016) và Đại hội XIII (2021) của Đảng nhấn mạnh việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó kiểm soát quyền lực bằng pháp luật, minh bạch và trách nhiệm là yêu cầu then chốt nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bộ máy nhà nước. Qua đó, tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam không chỉ là sự phát triển lý luận mà còn là sự cụ thể hóa quyết tâm chính trị, đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân trong một xã hội hiện đại, công bằng và dân chủ.

Việc không ngừng hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chính là minh chứng rõ nét cho quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước trong việc bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, tổ chức nhà nước trên cơ sở pháp luật, và hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, công bằng và dân chủ.

 Người dân hân hoan đón mừng lễ Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9.

TS Nguyễn Thị Thu Huyền cho rằng, Tuyên ngôn Độc lập là một áng “thiên cổ hùng văn” của thời đại mới, kết tinh truyền thống lịch sử kiên cường, bất khuất của dân tộc ta. Đó không chỉ là bản anh hùng ca mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, mà còn là nền tảng tư tưởng, pháp lý quan trọng cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam. Kế thừa những tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trải qua các giai đoạn cách mạng, đến nay Đảng, Chính phủ và Nhân dân ta vẫn tiếp tục kiên trì thực hiện, phấn đấu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân hướng tới hiện thực hóa mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn.

Giá trị trường tồn của bản Tuyên ngôn độc lập

PGS, TS Nguyễn Thị Thu Hà, Học viện Hành chính và Quản trị công, 80 năm đã trôi qua, bản Tuyên ngôn độc lập vẫn là tài sản tinh thần vô giá, là kim chỉ nam cho đường lối đối nội và đối ngoại của Việt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc vẫn luôn là nguyên tắc bất biến - điều mà bản Tuyên ngôn độc lập đã thể hiện ngay từ những dòng đầu tiên.

Một trong những điểm đặc biệt làm cho bản Tuyên ngôn Độc lập có tầm vóc quốc tế là cách Hồ Chí Minh gắn kết chính nghĩa dân tộc Việt Nam với các giá trị tiến bộ toàn cầu. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn lại những nguyên tắc cốt lõi của cách mạng tư sản phương Tây - vốn là biểu tượng cho tự do và dân chủ hiện đại - đã tạo nên sự đối thoại giữa dân tộc Việt Nam với cộng đồng quốc tế. Từ đó, Người đi đến một lập luận đanh thép, đầy sức thuyết phục: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

 

 80 năm đã qua, dân tộc Việt Nam đã giành được những thắng lợi vĩ đại trong hành trình đấu tranh cho độc lập, tự do, hạnh phúc, ngày càng có vị thế trên trường quốc tế.

Đây chính là điểm then chốt, thể hiện khả năng “quốc tế hóa chính nghĩa cách mạng Việt Nam” bằng phương pháp biện chứng: Từ quyền con người chuyển sang quyền dân tộc, đặt nền móng vững chắc cho việc yêu cầu cộng đồng thế giới công nhận nền độc lập của Việt Nam.

“Trong thời đại hội nhập toàn cầu, khi vấn đề chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, dân chủ, nhân quyền tiếp tục là những chủ đề trọng yếu, bản tuyên ngôn vẫn là kim chỉ nam cho các chiến lược đối nội và đối ngoại của nước ta. Nội dung của bản Tuyên ngôn đã được thể chế hóa trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại Khoản 1, Điều 1 của Hiến pháp 2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ”. Đây là sự kế thừa trực tiếp từ tinh thần của bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945. Những nguyên lý trong Tuyên ngôn như quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc vẫn tiếp tục là giá trị cốt lõi trong định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, PGS, TS Nguyễn Thị Thu Hà phân tích.

PGS,TS Đỗ Xuân Tuất, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng, 80 năm đã trôi qua kể từ thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn độc lập năm 1945, vượt qua bao thử thách cam go, dân tộc Việt Nam đã giành được những thắng lợi vĩ đại trong hành trình đấu tranh cho độc lập, tự do, hạnh phúc, ngày càng có vị thế trên trường quốc tế.

Trong giai đoạn mới, thời cơ và thách thức, thuận lợi và khó khăn đan xen, diễn biến phức tạp. Hơn lúc nào hết, toàn Đảng, toàn dân ta, cần nắm vững thời cơ, tranh thủ và phát huy mọi thuận lợi, tỉnh táo và sáng suốt trong nhận diện nguy cơ, thách thức, phát huy truyền thống vinh quang, nhận thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo những bài học lịch sử của Cách mạng Tháng Tám và giá trị của Tuyên ngôn Độc lập, giương cao tư tưởng Tuyên ngôn để vững tin vào con đường đã chọn, thực hiện thắng lợi đường lối xây dựng, phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Đó chính là sự tiếp nối để làm cho di sản cách mạng và tư tưởng Tuyên ngôn Độc lập mãi mãi trường tồn, bất diệt cùng dân tộc và thời đại.

Các ý kiến trong bài viết được trích từ tham luận gửi tới hội thảo khoa học “Tuyên ngôn Độc lập - Văn kiện lịch sử mở đầu kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam” tổ chức tại Hà Nội ngày 27/8 và hội thảo “Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh mùng 2/9: Giá trị thời đại và sức sống trường tồn” tổ chức tại Hà Nội ngày 14/8.

Tác giả: Nguyễn Vân

Nguồn tin: Báo VOV