Nghệ An 24h

http://nghean24h.vn


Vì sao chưa nhiều sinh viên mặn mà với các ngành STEM?

Tỷ lệ sinh viên ở Việt Nam theo học STEM trong những năm vừa qua có tăng cả về quy mô tuyển sinh lẫn quy mô đào tạo, nhưng so với các nước phát triển và các nước có nền khoa học công nghệ hiện đại, thì con số này của Việt Nam vẫn còn khiêm tốn.

Nghị quyết 57 -NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được xác định là “kim chỉ nam” cho đào tạo, cơ hội cho các cơ sở giáo dục đẩy mạnh nghiên cứu khoa học gắn với phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ trình độ cao. Mục tiêu đặt ra là đến năm 2030, nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người/1 vạn dân; có từ 40 - 50 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu vực và thế giới; số lượng công bố khoa học quốc tế tăng trung bình 10%/năm…

Muốn thu hút được người học phải trả lời câu hỏi học xong có việc không, lương cao không?

PGS.TS Nguyễn Anh Dũng - Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, Bộ GD-ĐT, cho biết, năm 2024 cả nước có khoảng hơn 180.000 sinh viên theo học các ngành liên quan STEM (Khoa học- Science, Công nghệ-Technology, Kỹ thuật - Engineering, Toán học - Mathematics) - là những ngành then chốt trong phát triển nhân lực khoa học và công nghệ. Số liệu này tăng hơn so với năm 2023. Nếu tính bình quân trong vòng 4 năm vừa qua về quy mô tuyển sinh những ngành STEM thì tăng bình quân khoảng 10%/năm, tỷ lệ tăng này cao hơn so với tỷ lệ tăng trung bình về quy mô tuyển sinh của cả nước (quy mô tuyển sinh cả nước tăng bình quân khoảng 5,6% phần trăm/năm).

 Tỷ lệ sinh viên Việt Nam chọn các ngành liên quan đến STEM còn khiêm tốn (ảnh minh họa)

Trong khi đó, năm 2024, quy mô đào tạo STEM cả nước có tăng khoảng gần 11% so với năm 2023, tương ứng với trên khoảng 62.000 sinh viên theo học các ngành STEM. Số sinh viên học STEM hiện nay đang ở mức khoảng 55 sinh viên/một vạn dân, mức này tương ứng chiếm khoảng 30% tổng quy mô đào tạo. Trong khi đó, đối với Singapore, tỷ lệ này đang khoảng 46% sinh viên đang học trong các ngành STEM, Hàn Quốc khoảng 35%, Phần Lan khoảng 36% và Đức khoảng 40%.

Như vậy, có thể thấy tỷ lệ sinh viên ở Việt Nam theo học STEM mặc dù trong những năm vừa qua có tăng cả về quy mô tuyển sinh lẫn quy mô đào tạo, nhưng trong bức tranh tổng thể, so với các nước phát triển và các nước có nền khoa học công nghệ hiện đại, thì con số này của Việt Nam vẫn còn khiêm tốn.

GS.TS Chử Đức Trình, Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội đặt câu hỏi, vậy bản chất tại sao sinh viên, học sinh hiện nay chưa chọn ngành STEM nhiều?

“Không phải sinh viên của ta không nỗ lực, không giỏi, không phải vì lười, không phải vì không học được mà vì mục đích cuối cùng sinh viên và gia đình mong muốn là học xong có việc làm và việc làm có đáp ứng được điều kiện cuộc sống hay không?

Điều đó đòi hỏi, chúng ta phải tạo ra một kênh thông tin, một hệ sinh thái để các bạn sinh viên tham gia. Trong thời gian tới, giáo dục STEM Việt Nam có cơ hội không chỉ cho các trường đại học mà còn là cơ hội cho mỗi sinh viên sau khi ra trường có điều kiện làm việc ở trong môi trường công nghiệp hiện đại, lương cao và công việc rất ổn định cho đến tuổi nghỉ hưu. Đây cũng chính là điều cần phải đặt ra và là trách nhiệm của tất cả các bên liên quan cần xây dựng”, GS.TS Chử Đức Trình nói.

Theo TS Lê Trường Tùng, Chủ tịch Hội đồng quản trị Trường Đại học FPT cũng cho rằng, hiện số lượng người học trong lĩnh vực STEM (khối ngành Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học) còn thấp. Do đó, cần có giải pháp để tạo sự dịch chuyển, tác động vào từng người học lựa chọn lĩnh vực này.

TS Lê Trường Tùng phân tích, nếu như có người học sẽ có cách thức triển khai, cùng với sự quản lý của Nhà nước, sự đầu để cuối cùng chất lượng cao hơn. Nhưng nếu không có người học hoặc không đủ số lượng như mong muốn sẽ rất khó.

“Hiện nay, chúng ta đang xây dựng khung chương trình đào tạo về vi mạch bán dẫn, trong đó đưa ra những chỉ tiêu đầu vào. Đây là mong muốn về mặt chất lượng, nhưng nếu số lượng đáp ứng không cao thì nên chăng cần suy nghĩ rất kỹ. Chúng ta cần chất lượng, quản lý ở đầu ra chứ không phải thắt chặt ngay đầu vào. Bởi vì đào tạo nhân lực cho một ngành công nghiệp yêu cầu số đông, khác với đào tạo tinh hoa. Cần số đông mà chúng ta lại “chặn” ngay đầu vào thì chính sách sẽ ngược với nhau”, TS Lê Trường Tùng nhìn nhận.

Cần chính sách tín dụng, học bổng hấp dẫn để thu hút người học

Bên cạnh đó, theo TS Lê Trường Tùng, việc đào tạo nhân lực chất lượng cao không chỉ dừng lại ở kiến thức mà còn đòi hỏi khả năng nghiên cứu, thực hành sáng tạo. Trong bối cảnh hiện nay, cần có cơ chế, chính sách về tín dụng, học bổng và học phí để thu hút học sinh, sinh viên giỏi theo học các lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ then chốt. Hiện nay mô hình tài chính sinh viên và mở rộng ra là mô hình kinh tế của các tổ chức giáo dục đại học là vấn đề ít khi được quan tâm ở mức độ cần thiết. Chính phủ vừa phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm với rất nhiều nội dung, nhưng dường như còn thiếu một nội dung liên quan đến tài chính cho giáo dục đại học. Nếu không đủ chi phí cho giáo dục đại học, yêu cầu về nhân lực chất lượng cao rất khó đạt như mong muốn.

TS Lê Trường Tùng phân tích, mức học phí trung bình của giáo dục đại học Việt Nam ở phân khúc thấp nhất thế giới. Nếu xem giáo dục đại học như một lĩnh vực dịch vụ, chúng ta đang có một dịch vụ cung cấp với giá rất thấp và không xuất khẩu được. Giáo dục đại học đối với nhiều nước đang là một trong top 5 lĩnh vực xuất khẩu, như ở Úc. Do đó, trong quy hoạch nói đến vấn đề nguồn lực để phát triển giáo dục đại học thì cần nói đến chi phí trung bình để đào tạo một sinh viên là bao nhiêu.

"Chi phí trung bình để đào tạo một sinh viên được tính từ nhiều nguồn, không đơn thuần là học phí - khoản mà người học phải trả. Ngoài ra cũng cần so sánh chi phí đào tạo một sinh viên tại Việt Nam hiện nay so với các nước trong khu vực và đặt mục tiêu trong 5 - 10 năm tới con số này là bao nhiêu, từ đó, đưa ra giải pháp, đặc biệt quan trọng là về cơ chế tín dụng. Tín dụng sinh viên là tận dụng nguồn lực của tương lai để đầu tư cho thời điểm hiện tại, các em sẽ trả bằng chính tiền của các em sau này. Đây là vấn đề quan trọng, nhưng hiện tín dụng sinh viên quy mô còn nhỏ, số tiền cũng nhỏ nếu so sánh với các nước khác", TS Lê Trường Tùng nhấn mạnh.

So sánh với các quốc gia khác, TS Tùng cho rằng, ở các nước, thông thường có thể áp dụng quy tắc sau để tính cơ cấu học phí theo mức 1 năm lương trung bình sau khi đi làm trả được 2 năm học phí. Như vậy nếu học 4 năm sẽ tốn khoản chi phí để đóng học phí bằng 2 năm lương sau này, người thu nhập cao đóng cao, thu nhập thấp đóng thấp. Với một số trường đầu tư cao hơn hoặc chất lượng cao hơn, học phí có thể cao hơn; hoặc một số trường khác học phí có thể thấp hơn. Nếu áp dụng quy tắc này tại Việt Nam hiện nay, học phí ở nhiều trường dù nâng cao lên vẫn chưa đạt được ngưỡng nói trên. Do đó cần xem xét và có những giải pháp đồng bộ, bao gồm cả truyền thông để mọi người chấp nhận thế nào là con số cao, thế nào là thấp. Điều này sẽ tạo động lực rất tốt, đặc biệt khi chúng ta đang khuyến khích phát triển lĩnh vực STEM.

Tác giả: Nguyễn Trang

Nguồn tin: vov.vn