Diện mạo mới của giáo dục đại học Việt Nam đến năm 2030 thế nào?
- 08:33 03-03-2025
- In ra
- Đóng cửa sổ này
![]() |
Đại học Bách khoa Hà Nội. (Ảnh minh hoạ: hust.edu.vn) |
Giáo dục đại học Việt Nam sẽ có cơ cấu 70% cơ sở công lập, 30% ngoài công lập vào năm 2030, chấm dứt hoạt động với các đại học không đạt chuẩn, khuyến khích đại học tư thục và phân hiệu đại học nước ngoài uy tín tại Việt Nam để đạt tỷ lệ 50% ngoài công lập vào năm 2050.
Các đại học quốc gia được quy hoạch phát triển tầm quốc tế, Đại học Huế và Đại học Đà Nẵng phát triển thành đại học quốc gia, hình thành mạng lưới 8 vùng và tiểu vùng đại học, tiếp tục di dời các đại học khỏi trung tâm Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, hình thành 4 trung tâm đại học lớn, phát triển mạng lưới đại học lĩnh vực trọng điểm, nhất là lĩnh vực sức khoẻ, phát triển đại học số...
Đây là những điểm đáng chú ý về diện mạo mới của giáo dục đại học Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2050 thể hiện trong Quyết định số 452/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Thu gọn đầu mối, chấm dứt hoạt động nếu không đạt chuẩn
Mục tiêu cụ thể của giáo dục đại học năm 2030 là đạt quy mô trên 3 triệu người học, đạt 260 sinh viên và 23 học viên sau đại học trên một vạn dân; tỷ lệ học đại học trên số người trong độ tuổi 18-22 đạt 33%, trong đó không tỉnh nào có tỷ lệ thấp hơn 15%, và đạt con số 45-50% vào năm 2050. Cơ cấu trình độ đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế tri thức và công nghiệp hiện đại. Mở rộng không gian phát triển và nâng cao năng lực cho các cơ sở để giáo dục đại học đạt trình tiên tiến trên thế giới, trở thành lợi thế cạnh tranh cốt lõi của quốc gia, động lực then chốt thúc đẩy phát triển đất nước.
Để đạt các mục tiêu trên, quy hoạch mạng lưới giáo dục được cơ cấu cụ lại về tỷ lệ và vai trò của giáo dục công lập và tư thục, về trình độ đào tạo, lĩnh vực hoạt động.
Cụ thể, đến năm 2030, đại học công lập chiếm 70% tổng quy mô đào tạo toàn quốc, giữ vai trò chủ đạo trong cung cấp nguồn nhân lực trình độ cao cho phát triển đất nước và bảo đảm cơ hội tiếp cận giáo dục đại học thuận lợi, công bằng cho người dân.
Các cơ sở giáo dục đại học tư thục và tư thục không vì lợi nhuận chiếm khoảng 30% tổng quy mô đào tạo toàn quốc, giữ vai trò quan trọng trong đa dạng hóa dịch vụ giáo dục đại học, đáp ứng linh hoạt nhu cầu của người học và của thị trường lao động.
Từ 50 đến 60 cơ sở giáo dục đại học đào tạo tới trình độ tiến sỹ, trong đó khoảng 50% phát triển theo định hướng nghiên cứu, giữ vai trò nòng cốt trong mạng lưới về đào tạo, bồi dưỡng nhân tài gắn với nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo.
![]() |
Số lượng cơ sở đại học theo vùng. |
Các cơ sở giáo dục đại học sẽ được sắp xếp theo hướng tăng cường năng lực với các cơ sở hiện có, chấm dứt hoạt động trước năm 2028 và trước 2030 với cơ sở không đạt chuẩn; thu gọn đầu mối cơ sở giáo dục đại học công lập; sắp xếp các phân hiệu đại học; sắp xếp các đại học trực thuộc các bộ, ngành theo hướng tập trung vào lĩnh vực của cơ quan quản lý trực tiếp; sắp xếp đại học địa phương theo hướng tập trung vào lĩnh vực trọng điểm của vùng; khuyến khích mở rộng mạng lưới cơ sở giáo dục tư thục, phân hiệu của đại học nước ngoài có uy tín.
Đến năm 2050, phát triển mạng lưới cơ bản ổn định về số lượng và phân bố không gian các cơ sở giáo dục đại học, sắp xếp giảm số đầu mối cơ sở giáo dục đại học công lập và tăng số cơ sở giáo dục đại học tư thục, nhất là số cơ sở giáo dục đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận.
Nâng cấp, mở rộng và hiện đại hóa các cơ sở giáo dục đại học theo các tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng quy mô đào tạo trên 3,6 triệu người học, trong đó khối tư thục chiếm khoảng 50%; tỷ trọng đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ đạt mức trung bình của nhóm quốc gia có thu nhập cao.
Phát triển các đại học quốc gia, đại học vùng
Đại học quốc gia và đại học vùng được tập trung đầu tư nâng cấp, phát triển đạt chất lượng và uy tín ngang tầm khu vực và thế giới.
Cụ thể, phát triển Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh thuộc nhóm cơ sở giáo dục đại học hàng đầu châu Á.
Phát triển Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng thành đại học quốc gia. Các đại học quốc gia phát triển theo định hướng nghiên cứu, tập trung đào tạo tài năng, chất lượng cao và đào tạo sau đại học gắn với nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo, thực hiện nhiệm vụ chiến lược quốc gia; ưu tiên các lĩnh vực khoa học cơ bản, kỹ thuật, công nghệ và một số lĩnh vực trọng điểm khác theo thế mạnh cốt lõi của từng đại học.
Nâng cấp, mở rộng không gian phát triển của Đại học Thái Nguyên trong vùng Trung du và miền núi phía Bắc; nâng cấp, phát triển thêm các đại học vùng tại Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long với nòng cốt là Trường Đại học Vinh, Trường Đại học Nha Trang, Trường Đại học Tây Nguyên, Trường Đại học Cần Thơ và một số trường đại học khác tại mỗi vùng; chuẩn bị điều kiện để phát triển Trường Đại học Tây Bắc thành đại học vùng ở giai đoạn sau năm 2030.
![]() |
Quy mô đào tạo của các vùng. |
Các đại học vùng tập trung nâng cao chất lượng, chú trọng nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo, thực hiện nhiệm vụ phát triển vùng; ưu tiên các lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ, sư phạm và một số lĩnh vực khác theo yêu cầu phát triển từng vùng.
Một số vùng có mức độ tiếp cận đại học thấp sẽ được thành lập đại học như cụ thể tại Tây Bắc, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long…
Đến năm 2050, tiếp tục ưu tiên đầu tư, phát triển các đại học quốc gia, đại học vùng, các cơ sở giáo dục đại học trọng điểm trở thành các trung tâm đào tạo, nghiên cứu đẳng cấp thế giới, nhất là trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ và y dược.
Hình thành mạng lưới đại học vùng
Theo quy hoạch, sẽ hình thành và phát triển các mạng lưới cơ sở giáo dục đại học theo vùng, tiểu vùng, lấy các đại học quốc gia, đại học vùng và các cơ sở giáo dục đại học trọng điểm làm nòng cốt, tăng cường liên kết trong mạng lưới và gắn kết với cơ sở nghiên cứu, khu vực công nghiệp và doanh nghiệp, tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội của vùng và các địa phương lân cận.
Cụ thể, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục đại học các vùng: vùng Trung du và miền núi phía Bắc (với trung tâm là Thái Nguyên và Sơn La, ưu tiên mở rộng mạng lưới tại khu vực Tây Bắc); vùng Đồng bằng sông Hồng (với trung tâm là Hà Nội và Hải Phòng); các tiểu vùng Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ và Nam Trung Bộ (với trung tâm là Nghệ An và Thanh Hóa, Huế và Đà Nẵng, Khánh Hoà và Bình Định); vùng Tây Nguyên (với trung tâm là Đắk Lắk và Lâm); vùng Đông Nam Bộ (với trung tâm là Thành phố Hồ Chí Minh và Bình Dương); vùng Đồng bằng sông Cửu Long với trung tâm là Cần Thơ.
Để hình thành mạng lưới cơ sở giáo dục đại học vùng, các đại học sẽ được mở rộng diện tích. Vì vậy, sẽ tiếp tục thực hiện lộ trình di dời các cơ sở giáo dục đại học nằm trong khu vực nội thành Thành phố Hồ Chí Minh ra các khu vực quy hoạch mới của thành phố này và các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Long An; di dời các cơ sở giáo dục đại học nằm trong khu vực trung tâm Hà Nội ra các khu vực quy hoạch mới của thành phố và các tỉnh Hà Nam, Hưng Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc.
Cùng với hình thành mạng lưới đại học các vùng là việc hình thành các trung tâm giáo dục đại học lớn tại 4 vùng đô thị lớn. Cụ thể gồm các trung tâm: trung tâm giáo dục đại học vùng đô thị Hà Nội (với nòng cốt là Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội và một số đại học lớn); trung tâm giáo dục đại học vùng đô thị Thành phố Hồ Chí Minh (với nòng cốt là Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và một số đại học lớn); trung tâm giáo dục đại học vùng đô thị Đà Nẵng (với nòng cốt là Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng và Đại học Duy Tân); trung tâm giáo dục đại học vùng đô thị Cần Thơ với nòng cốt là Trường Đại học Cần Thơ.
Phát triển mạng lưới đại học lĩnh vực trọng điểm
Quy hoạch nêu rõ các đại học cũng được hình thành mạng lưới đại học trọng điểm theo lĩnh vực, trong đó đặc biệt chú trọng lĩnh vực sức khoẻ.
Quy hoạch nêu rõ phát triển mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học đào tạo các ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe, tăng quy mô đào tạo từ 180.000 đến 200.000 người học đại học để cùng với hệ thống giáo dục nghề nghiệp bảo đảm đáp ứng nhu cầu về số lượng nguồn nhân lực bác sỹ, dược sỹ, điều dưỡng.
Lựa chọn và đầu tư trọng điểm từ 3 đến 5 cơ sở giáo dục đại học công lập có năng lực và uy tín hàng đầu về nghiên cứu và đào tạo trong lĩnh vực sức khỏe, cùng với một số đại học quốc gia, đại học vùng (được xác định lĩnh vực trọng điểm về y dược) đóng vai trò hạt nhân, nòng cốt trong mạng lưới cơ sở giáo dục đại học đào tạo lĩnh vực sức khỏe, đạt chất lượng và uy tín ngang tầm khu vực.
![]() |
|
Cùng với khối ngành sức khoẻ, phát triển các mạng lưới cơ sở giáo dục đại học theo từng lĩnh vực trọng điểm, then chốt khác theo chiến lược phát triển đất nước, chiến lược phát triển các ngành kinh tế - xã hội, đặc biệt các ngành, lĩnh vực cần ưu tiên phát triển theo chương trình hành động của Chính phủ thực hiện các nghị quyết của Đảng.
![]() |
|
Đại học số chiếm 30% quy mô
Bên cạnh đó là việc phát triển mạng lưới giáo dục đại học số trên cơ sở ứng dụng công nghệ trong tổ chức và hoạt động của từng cơ sở và cả hệ thống giáo dục đại học; liên kết mạng lưới cơ sở giáo dục đại học trên các nền tảng đào tạo trực tuyến nhằm chia sẻ, sử dụng hiệu quả tài nguyên và dịch vụ giáo dục đại học; chuyển đổi mô hình hoạt động của một số trường đại học hoặc đơn vị đào tạo thuộc cơ sở giáo dục đại học thành trường đại học số, trường đào tạo số.
Phát triển hệ thống giáo dục đại học số quốc gia, tạo đột phá thực hiện mục tiêu tăng quy mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo; hình thành mạng lưới cơ sở giáo dục đại học theo ngành, lĩnh vực trọng điểm trên hệ thống giáo dục đại học số quốc gia.
Đến năm 2030, 100% cơ sở giáo dục đại học cung cấp chương trình đào tạo từ xa, trực tuyến; giáo dục đại học số trở thành một trụ cột quan trọng của hệ thống giáo dục đại học, chiếm tỉ trọng 30% quy mô (tính theo số tín chỉ học tập được công nhận).
Đến năm 2050, tiếp tục ưu tiên đầu tư nâng cấp và mở rộng phạm vi hoạt động của hệ thống giáo dục đại học số quốc gia và chuyển đổi mô hình hoạt động của một số cơ sở giáo dục đại học lớn sang mô hình đại học số; tăng tỷ trọng giáo dục đại học số đạt 50% quy mô (tính theo số tín chỉ học tập được công nhận)./.
Tác giả: Phạm Mai
Nguồn tin: vietnamplus.vn