Đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam: Chính phủ gợi ý cơ chế 'đặc thù đặc biệt cả gói'
- 09:07 05-12-2023
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Chín phủ yêu cầu tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam phải trở thành trục "xương sống". |
Tốc độ thiết kế 350km/h và trở thành trục "xương sống"
Trong kết luận, Phó Thủ tướng nhấn mạnh việc nghiên cứu đầu tư xây dựng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam đã được Bộ Giao thông Vận tải thực hiện trong thời gian dài; trong đó báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án năm 2010 đã được Bộ Chính trị tán thành chủ trương đầu tư, nhưng chưa được cấp có thẩm quyền thông qua.
Để chuẩn bị đầy đủ nội dung đề án, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu Bộ Giao thông Vận tải căn cứ thực tiễn dựa trên yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, kinh nghiệm quốc tế (làm rõ thêm kinh nghiệm các nước trên thế giới về phát triển đường sắt tốc độ cao bao gồm cả phương án huy động vốn), với số liệu, dữ liệu kinh tế, kỹ thuật, khoa học để phân tích đầy đủ, rõ nét hơn tác động của đường sắt tốc độ cao đến tổng thể nền kinh tế - xã hội (giảm chi phí logistics, tăng sức cạnh tranh, ổn định kinh tế vĩ mô, tăng hiệu quả nền kinh tế; tác động lan tỏa, phát triển đô thị, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thúc đẩy phát triển du lịch...), trên cơ sở tính tương hỗ giữa các phương thức vận tải để nghiên cứu, lựa chọn, đề xuất phương án đầu tư bảo đảm khả thi, an toàn, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu giai đoạn trước mắt và lâu dài.
Về kịch bản phát triển, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà cho rằng cần dựa vào nhu cầu nội tại về phát triển kinh tế - xã hội nước ta, kinh nghiệm đầu tư đường sắt tốc độ cao trên thế giới để nghiên cứu đầu tư đường sắt tốc độ cao đảm bảo đồng bộ, hiệu quả, phù hợp với xu thế phát triển trên thế giới, tốc độ thiết kế 350km/h và thực sự trở thành trục "xương sống" theo Kết luận số 49 của Bộ Chính trị, đồng thời khai thác hiệu quả tuyến đường sắt hiện có.
Về cơ chế chính sách đặc thù, Phó Thủ tướng giao Bộ Giao thông Vận tải chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, địa phương và doanh nghiệp nghiên cứu, đề xuất cơ chế chính sách "đặc thù đặc biệt cả gói" để báo cáo Bộ Chính trị, trình Quốc hội khi thông qua chủ trương đầu tư.
Cơ chế này bao gồm: cơ chế huy động và sử dụng các nguồn vốn; cơ chế sử dụng tiền thu từ sử dụng đất từ các địa phương; cơ chế đào tạo, sử dụng cán bộ, kỹ sư; cơ chế nội địa hóa gắn với phát triển ngành công nghiệp đường sắt; cơ chế thu hút đầu tư PPP; cơ chế hợp tác, thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ thông qua FDI; mô hình tổ chức vận hành - kinh doanh...
Quá trình triển khai nghiên cứu tiếp theo, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan nghiên cứu, Phó Thủ tướng yêu cầu làm sâu sắc thêm tầm quan trọng của giao thông, đặc biệt là đường sắt tốc độ cao trong việc phát triển đô thị theo định hướng gắn kết với giao thông công cộng (TOD).
Về hướng tuyến đường sắt tốc độ cao, Phó Thủ tướng yêu cầu nghiên cứu sử dụng hiệu quả các giải pháp công trình cầu, hầm để đảm bảo hướng tuyến thẳng nhất có thể, đảm bảo khả năng thoát lũ, hạn chế ảnh hưởng đến các khu bảo tồn và chia cắt cộng đồng; xem xét phương án bố trí điểm đầu, điểm cuối tuyến tại trung tâm Thủ đô Hà Nội và TP. HCM.
Về tổng mức đầu tư, do dự án có quy mô lớn, phức tạp về kỹ thuật - công nghệ, thời gian thực hiện dài (trên 10 năm) nên cần làm rõ việc tính toán sơ bộ tổng mức đầu tư chỉ là ước tính ban đầu, số liệu chính xác sẽ tiếp tục được cập nhật ở các bước tiếp theo khi đủ điều kiện, tránh hiểu nhầm trong trường hợp tổng mức đầu tư dự án tăng trong giai đoạn triển khai.
Về nguồn vốn, bố trí nguồn vốn trong giai đoạn đầu; giai đoạn sau nghiên cứu kết hợp nguồn thu từ giá trị gia tăng phát triển đô thị, kêu gọi xã hội hóa, thu hút vốn tư nhân đầu tư đầu máy, toa xe để kinh doanh vận tải và trả phí cho Nhà nước.
Phó Thủ tướng giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông Vận tải nghiên cứu chính sách phát triển công nghiệp đường sắt và công nghiệp phụ trợ (cơ khí, chế tạo, luyện kim...) giúp phát triển đường sắt nói chung, đường sắt tốc độ cao nói riêng. Tổng công ty Đường sắt Việt Nam chủ động tổ chức công tác chuẩn bị (đào tạo nguồn nhân lực, công nghệ, cơ khí...) để thực hiện quản lý, vận hành, khai thác đường sắt tốc độ cao.
3 kịch bản đầu tư đường sắt tốc độ cao
Theo tờ trình của Bộ Giao thông Vận tải, dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam đang tập trung vào 3 kịch bản chính.
Bộ Giao thông Vận tải đánh giá và lựa chọn kịch bản 3 làm đường sắt tốc độ cao. |
Kịch bản 1, đầu tư xây dựng mới tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam đường đôi, khổ ray 1.435mm, tốc độ thiết kế 350km/h, tải trọng 17 tấn mỗi trục, chỉ khai thác tàu khách. Tuyến đường sắt Bắc Nam hiện hữu được nâng cấp để chuyên chở hàng, chở khách du lịch và khách chặng ngắn. Tổng vốn đầu tư kịch bản này khoảng 67,32 tỷ USD.
Kịch bản 2, xây dựng mới tuyến đường sắt Bắc - Nam đường đôi, khổ ray 1.435mm, tốc độ thiết kế 200-250km/h, tải trọng 22,5 tấn/trục, khai thác chung tàu khách và hàng. Tuyến đường sắt Bắc Nam hiện hữu được hiện đại hóa để chuyên chở hàng, chở khách du lịch và khách chặng ngắn. Tổng vốn đầu tư khoảng 72,02 tỷ USD.
Kịch bản 3, đầu tư tuyến đường sắt Bắc - Nam đường đôi, khổ ray 1.435mm, tốc độ thiết kế 350km/h, tải trọng 22,5 tấn mỗi trục, khai thác tàu chở khách và dự phòng cho chở hàng khi có nhu cầu. Tuyến đường sắt hiện hữu nâng cấp để chuyên chở hàng, chở khách du lịch và khách chặng ngắn. Tổng vốn đầu tư dự án 68,98 tỷ USD. Nếu đầu tư hạ tầng, thiết bị, phương tiện để khai thác tàu hàng chạy Bắc - Nam thì vốn đầu tư dự án khoảng 71,60 tỷ USD.
Bộ Giao thông Vận tải đánh giá và lựa chọn kịch bản 3 nêu trên để đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam và kiến nghị ban hành một số cơ chế, chính sách đặc thù để rút ngắn tiến độ, thực hiện thành công dự án.
Góp ý về các kịch bản này, Bộ Xây dựng thống nhất đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam theo kịch bản 3 và đề nghị đề nghị Bộ Giao thông Vận tải phối hợp các địa phương có dự án chạy qua giữ nguyên thỏa thuận hướng tuyến khi làm quy hoạch tỉnh, tránh điều chỉnh làm phát sinh chi phí đầu tư. Bộ này cũng lưu ý chi phí đầu tư dự án lên tới hàng chục tỷ USD nên để đảm bảo tính khả thi, Bộ Giao thông Vận tải cần bổ sung căn cứ pháp lý để đề xuất sơ bộ tổng vốn đầu tư.
Với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan này đánh giá kịch bản 1 và 3 của Bộ Giao thông Vận tải đưa ra không đáp ứng được yêu cầu, chỉ đạo của Ban cán sự Đảng Chính phủ và Bộ Chính trị. Chỉ có kịch bản 2 đáp ứng được yêu cầu, nhưng nội dung kịch bản 2 lại chưa đúng với phương án kiến nghị của hội đồng thẩm định nhà nước.
Với kịch bản 3, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng sự bất hợp lý ở việc phương án đầu tư dự án có tốc độ thiết kế 350km/h nhưng tổng mức đầu tư dự án lại thấp hơn kịch bản 2 có tốc độ thiết kế 250km/h; chưa có nội dung liên quan phương án vận tải hàng hóa...
"Liên hệ thực tiễn với kinh nghiệm quốc tế thì hiện nay trên thế giới chưa có tuyến đường sắt tốc độ cao nào có tốc độ thiết kế 350km/h có thể vận tải hỗn hợp (hành khách và hàng hóa)", văn bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nêu.
Tác giả: Chí Bình
Nguồn tin: vietnamfinance.vn