Đền Cuông: Cổ miếu danh sơn
- 12:00 18-03-2022
- In ra
- Đóng cửa sổ này
“Vương đế ngũ thập niên,
công tại sinh linh, danh tại sử…”
Qua Dạ sơn nhớ chuyện xưa
Di sản văn hóa là yếu tố quan trọng, có tính quyết định để làm nên diện mạo, bản sắc riêng của một dân tộc hay một vùng văn hóa. Để mất di sản, dù chỉ là một phần, cũng chính là đánh mất bản sắc. Bảo tồn và phát huy di sản vì sự phát triển bền vững vừa là mục tiêu vừa là động lực của mỗi địa phương và của cả nước.
Đền Cuông, đền thờ An Dương Vương, vị vua, cách nay hơn 2.250 năm về trước, đã lập lên nước Âu Lạc, dựng kinh đô Phong Khê, xây thành Cổ Loa kiên cố. Vì không tỉnh táo trước âm mưu thâm độc của bọn bành trướng phương Bắc nên An Dương Vương đã sa cơ.
Đền Cuông - đền thờ Thục An Dương Vương trên núi Mộ Dạ (xã Diễn An, huyện Diễn Châu). Ảnh: Nguyễn Diệu |
Sự nghiệp của Thục Vương kéo dài 50 năm, khởi đầu từ năm 218 TCN, khi các lạc tướng suy tôn là vị lãnh tụ. Kháng chiến thắng lợi, Thục Vương nắm trọn quyền uy, dốc sức dựng cơ đồ đại nghiệp. Thế nhưng, lại kết thúc một cách bi thảm vào năm 208 TCN, tại “Bến An Dương”.
Một di tích văn hóa lịch sử lâu đời, dựng lên từ ngàn năm trước. Ảnh: Nguyễn Diệu |
“Bến An Dương”, xưa là Cửa Hiền, bị bồi lấp từ lâu, nằm ở phía Đông Nam đền thờ An Dương Vương, nay thuộc xã Nghi Yên, Nghi Lộc. Trên sườn núi cận kề đường 1A là tòa miếu cổ kính nguy nga, một di tích văn hóa lịch sử lâu đời, dựng lên từ ngàn năm trước. Đây là khu rừng thiêng, thỉnh thoảng nhiều chim cuông tới múa, nên mới có tên Núi Cuông. Do sự tàn sát của người dân mà nơi đây, từ nửa cuối thế kỷ 20, vắng bóng loại chim này.
Sự nghiệp của Thục Vương kéo dài 50 năm, khởi đầu từ năm 218 TCN, kết thúc một cách bi thảm vào năm 208 TCN. Ảnh: Nguyễn Diệu |
Tuy nhiên, trong tiềm thức dân gian: Cánh chim cuông, móng rùa thần, lông ngỗng, sừng tê giác… vẫn còn in đậm nét như Thành Ốc - Đền Cuông… từng lưu giữ trong lòng nó “Công lao - Đức nghiệp An Dương” cùng truyền thuyết và những trang sử chép về Tiên Vương. Bởi vậy, mỗi khi ngước nhìn đỉnh Núi Dạ chiêm ngưỡng Đền Cuông, hoài niệm tích xưa, ai cũng băn khoăn, xao xuyến?
“Bờ biển La Nham vách núi cao
Nỏ thần khởi họa tự năm nao
Diễn Châu đường cái đà phai gấm
Mộ Dạ đền thiêng vẫn sáng sao
Mặt biển, mênh mông tê rẽ nước
Bên rừng, thi thoảng hạc khoe
Hoang đường ngoại sử không tin
Ra cổng, ghìm cương, dạ xuyến xao..”
(Thơ Bùi Huy Bích: Qua Dạ Sơn nhớ chuyện xưa trong Nghệ An ký - Mục từ Dạ Sơn - BVC dịch).
“… Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu/Trái tim lầm chỗ để trên đầu...". Ảnh: Nguyễn Diệu |
Trái tim lầm chỗ đặt trên đầu
“… Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu...”
(Tâm Sự - Tố Hữu)
Lễ hội Đền Cuông thường kéo dài 3 ngày (từ 14/2 âm lịch). Ảnh: Nguyễn Diệu |
Truyền thuyết kể rằng: Thục phán An Dương Vương nổi tiếng với tài binh lược và đặc biệt gắn liền với ông là ngôi thành Cổ Loa huyền thoại. Không chỉ vậy, ngôi thành này còn gắn liền với vị thần Kim Quy và cái nỏ thần. Bắt đầu từ đó, đất nước Âu Lạc thời bước vào thời kỳ hưng thịnh và không lo nạn giặc ngoại xâm. Vào cuối đời Tần, Triệu Đà gốc Hán chiếm cứ Uất Lâm (Quý Huyện - Quảng Tây), Nam Hải (Quảng Châu - Quảng Tây), lập nước Nam Việt, xưng vương đóng đô ở Phiên Ngung. Triệu Đà mang mộng xâm lấn mở mang bờ cõi nên y nhiều lần đem quân nhằm thôn tính nước Âu Lạc, thế nhưng mấy lần đem quân sang đều bị thất bại bèn lập kế cầu hòa.
Tam quan xây kiểu chồng diêm 8 mái. Ảnh: Nguyễn Diệu |
Thục An Dương Vương không những chấp nhận mà còn gả con gái yêu là Mỵ Châu cho Trọng Thủy, con trai vua Triệu Đà. Sau khi được “nhạc phụ” tin tưởng, Trọng Thủy bắt đầu ý đồ ăn cắp lẫy nỏ thần và báo về cho vua cha. Có lẫy nỏ thần trong tay, chắc thắng sẽ đánh bại Âu Lạc, Triệu Đà hí hửng cất quân đánh. Do chủ quan có nỏ thần hộ mệnh, giặc đến sát chân thành mà quân Thục vẫn đủng đỉnh không thèm nghênh chiến, nên thua to. Mất thành, An Dương Vương cùng con gái chạy vào Nghệ An lánh nạn.
Thượng điện được xây dựng ở thời Lê, đến 1897 được tu bổ, xây dựng lại. Ảnh: Nguyễn Diệu |
Sau khi cùng Mỵ Châu lên ngựa phóng về phương Nam, tới nơi bờ biển chắn ngang, đường bị cắt đứt, đò giang không thấy bóng người, An Dương Vương kêu lên rằng: “Trời đã bỏ ta, hỡi sứ giả đại giang mà ta đã gặp, hãy cứu ta!”. Từ mặt nước, thần Kim Quy nhô lên và nói: “Bệ hạ đang mang theo kẻ thù trên lưng ngựa. Cớ sao còn để làm gì?”. Thục An Dương Vương rút kiếm định chém đầu Mỵ Châu, thì nàng khẩn khoản lạy thưa: “Nếu vì lòng phản bội mà hại phụ vương thì sau khi chết con sẽ trở thành cát bụi. Nhưng nếu vì mù quáng, cả tin mà dẫn đến cảnh ngộ này thì sau khi con chết con sẽ hóa thành đá…”. Vừa dứt lời, An Dương Vương chém Mỵ Châu. Nàng nằm sóng soài trên cát trắng, máu nàng chảy xuống biển, những con trai hớp được đã biến thành ngọc quý ở trong lòng trai. Thi thể của nàng chìm xuống đáy sâu của biển và cũng biến thành một tảng đá.
Nẻo về nguồn cội
Là một công trình kiến trúc cổ có quy mô đồ sộ, cấu trúc độc đáo, xây cất trang trí công phu. Ảnh: Nguyễn Diệu |
Lễ hội Đền Cuông thường kéo dài 3 ngày (từ 14/2 âm lịch) ngày với nhiều hoạt động mang đậm bản sắc văn hóa bản địa, thu hút đông đảo nhân dân trong vùng và khách thập phương tham gia. Tuy nhiên, năm nay, do diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 nên chỉ diễn ra phần lễ.
Hiện còn lưu giữ được một số đồ tế khí quý như bia đá, sắc phong, long ngai hiệu bụt, tượng, kiệu, đại tự... Ảnh: Nguyễn Diệu |
Hiện đền Cuông có các kiến trúc chính sau: Cổng đền và hệ thống tường giác, nhà voi ngựa. Nhà bia (dựng năm 1864), văn bia do tiến sĩ Phạm Huy Lượng soạn, nói về công tích Thục An Dương Vương và việc thờ phụng. Tam quan xây kiểu chồng diêm 8 mái. Hạ điện: xây dựng 1864. Trung điện: xây dựng 1864. Thượng điện: Được xây dựng ở thời Lê, đến 1897 được tu bổ, xây dựng lại. Tả, hữu vu: xây dựng 1950. Nhìn chung đây là một công trình kiến trúc cổ có quy mô đồ sộ, cấu trúc độc đáo, xây cất trang trí công phu. Tại đây hiện còn lưu giữ được một số đồ tế khí quý như bia đá, sắc phong, long ngai hiệu bụt, tượng, kiệu, đại tự… Năm 1975, đền Cuông đã được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật.
Đền Cuông được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia vào ngày 21-2-1975. Ảnh: Nguyễn Diệu |
Về với đền Cuông, được hòa mình vào Cửa Hiền thơ mộng, nét thơ của hồ Xuân Dương êm mát, khu du lịch biển Diễn Thành, chùa Cổ Am hay lèn Hai Vai soi bóng dưới sông Bùng… mới thấy được hết vẻ đẹp của mảnh đất hơn nghìn năm văn hiến này.
Điện thờ Thục Phán An Dương Vương. Ảnh: Nguyễn Diệu |
Không chỉ đẹp bằng nét vẽ cổ kính, trang nghiêm… đền Cuông còn mang trên mình một kho tàng di sản văn hóa đồ sộ nhiều giá trị với nội dung đa dạng, hình thức độc đáo. Đền còn là nơi chốn để những ai có lòng hoài cổ tìm đến và “khai quật” những bí mật còn ẩn tàng đâu đó giữa lòng di tích.
Về với đền Cuông là nẻo về nguồn cội, là về với nguồn sống của con dân đất Việt. Ảnh: Nguyễn Diệu |
Đền Cuông, một di sản văn hóa, chứa đựng những hồi ức sống động của loài người, là bằng chứng vật chất của các nền văn hóa, văn minh nhân loại. Còn là tài sản vô giá, là nguồn dinh dưỡng nuôi nấng, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, và là cơ sở để sáng tạo những giá trị mới trong giao lưu văn hóa./.
Tác giả: Nguyễn Diệu
Nguồn tin: phuongnam.vanhoavaphattrien.vn