8 loại cá chứa nhiều thủy ngân ᴠà ᴄhất độᴄ, càng ăn nhiều càng hại gan thận
- 16:27 11-10-2021
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Các loại cá có hàm lượng thủy ngân cao
Cá thu là loại cá vô cùng phổ biến. Bạn có thể dễ dàng mua loại cá này ở các chợ, siêu thị, cửa hàng hải sản. Tuy nhiên, loại cá này có thể chứa một lượng thủy ngân lớn do ảnh hưởng từ môi trường sống. Cá thu Tây Ban Nha có 8 – 13 microgam thủy ngân. Cá thu Đại Tây Dương là được coi là an toàn nhất. Người lớn có thể ăn 200gr/tháng; trẻ nhỏ có thể ăn 100gr/tháng.
Ngoài ra có một số loại cá cũng có hàm lượng thủy ngân và các chất độc hại mà chúng ta nên hạn chế sử dụng như cá ngừa, cá chình...
|
Cá rô phi
Cá rô phi không chứa nhiều axit béo có lợi cho sức khỏe mà tập trung các axit béo có hại không khác gì mỡ lợn. Ăn quá nhiều cá rô phi có thể làm tăng cholesterol trong máu, đặc biệt không phù hợp với người có bệnh tim mạch, viêm khớp, hen suyễn.
Cá da trơn
Cá da trơn là loại thực phẩm quen thuộc với nhiều người. Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy loại cá này được bày bán ở nhiều nơi. Tuy nhiên, khi mua cá da trơn bạn cần lưu ý một điểm: Bản thân loại cá này đã có kích thước khá to nếu thấy con cá có kích thước bất thường thì không nên mua. Đó có thể là cá được cho ăn hormone tăng trưởng. Chỉ nên chọn những con cá da trơn có kích thước vừa phải. Như vậy sẽ ngon và an toàn hơn.
Cá "ngoại cỡ"
Người mua thường thích những con cá nặng cân, ngoại cỡ. Tuy nhiên, các chuyên gia lại không đánh giá cao về dinh dưỡng của loại cá này. Chúng có thể chứa hormone tăng trưởng hoặc tích tụ nhiều kim loại nặng do sống lâu năm. Khi ăn vào, con người cũng sẽ chịu ảnh hưởng từ các chất độc này.
Khi mua cá, bạn nên chọn những con cá có kích thước vừa phải. Ví dụ, cá trắm cỏ chỉ nặng khoảng 3-5kg, cá chép khoảng 1,5kg, cá diếc nhỏ 0,5-1kg.
Cá khô
|
Cá khô thường được dùng để tích trữ trong thời gian dài. Những con cá tươi sau khi đánh bắt sẽ được làm sạch, tẩm ướp với muối hoặc các loại gia vị khác để tăng thời gian bảo quản rồi đem phơi hoặc sấy khô.
Mặc dù có hương vị hấp dẫn nhưng dùng loại cá này trong thời gian dài lại không hề tốt cho sức khỏe.
Thường xuyên ăn cá khô nghĩa là bạn đã nạp vào cơ thể một lượng muối lớn. Lượng natri trong cơ thể tăng cao sẽ dẫn tới nguy cơ mắc bệnh về huyết áp cao hơn. Huyết áp tăng cao có thể làm tắc nghẽn hoặc vỡ các động mạch, khiến các cơ quan bị thiếu oxy, đặc biệt là não và gây ra hiện tượng tai biến.
Ngoài ra, các loại động vật sau khi chết 1 giờ sẽ bắt đầu quá trình phân giải, đạm bị phân giải sẽ tạo ra histamine. Nếu bảo quản không tốt, lượng histamin càng nhiều, độc tố càng cao, con người ăn vào càng dễ bị dị ứng.
Bên cạnh đó, quá trình phơi sấy không đảm bảo có thể khiến cá bị nhiễm khuẩn, nấm mốc. Các chất độc hại mà chúng sinh ra có thể không gây phản ứng ngay lập tức nhưng nếu tích tụ lâu ngày và với số lượng đủ lớn thì có thể gây các bệnh nan y.
Chưa kể đến việc một số tiểu lương vì lợi nhuận tẩm thêm các loại chất phụ gia, bảo quản vào cá, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người tiêu dùng.
Cá sống
|
Cá là loài động vật ăn tạp lại sống dưới nước nên rất dễ bị nhiễm cá loại độc tố và vi sinh vật sống trong môi trường nước. Nếu thịt cá không được chế biến ở nhiệt độ cao thì các vi sinh vật và chất độc hại không thể biến mất. Ăn cá số có thể khiến con người bị nhiễm ký sinh trùng vô cùng nguy hiểm.
Cá chiên, nướng quá lâu hoặc nhiều lần
Chiên hoặc nướng cá quá lâu, quá nhiều lần, chất béo trong thịt cá sẽ bị oxy hóa và tạo ra các chất có hại như benzopyrene. Tiêu thụ chất này với số lượng lớn có thể làm tăng nguy cơ suy tim và hình thành các khối u ở thực quản.
Sau khi chiên, nướng thời gian dài hoặc hâm nóng nhiều lần, dinh dưỡng trong cá suy giảm, không mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.
Cá có mùi lạ
Khi cá xuất hiện mùi lạ, bạn tuyệt đối không được ăn. Cá có mùi lạ có thể là do bị ôi, thiu hoặc chứa các chất bảo quản không được cho phép.
Nếu thấy cá có mùi bất thường (đưa cá lên ngửi có cảm giác cay cay ở mặt và nghẹt mũi) thì không được mua. Tốt nhất hãy chọn cá tươi; mắt, mang, vày và đuôi cá còn khỏe mạnh, linh hoạt.
Nguồn tin: Báo Gia đình & Xã hội