Nghệ An 24h

http://nghean24h.vn


Chủ tịch UBND tỉnh Thái Thanh Quý: Xây dựng miền Tây Nghệ An vững mạnh toàn diện là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng

Tại Hội nghị gặp mặt giữa Thường trực Tỉnh ủy với cán bộ lãnh đạo cấp phòng và tương đương trong các cơ quan cấp tỉnh được tổ chức sáng nay (28/9), đã có nhiều ý kiến liên quan đề cấp đến lĩnh vực kinh tế. Chủ tịch UBND tỉnh Thái Thanh Quý đã trả lời, làm rõ các nội dung này. Theo đó, Chủ tịch UBND tỉnh khẳng định xây dựng miền Tây Nghệ An vững mạnh toàn diện là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh lâu dài của tỉnh Nghệ An, khu vực Bắc Trung bộ và của cả nước.

 Đồng chí Nguyễn Tân Anh - Phó Trưởng Phòng Xúc tiến đầu tư, Trung tâm Xúc tiến và Hỗ trợ đầu tư tỉnh nêu ý kiến.

Tại hội nghị, đồng chí Nguyễn Tân Anh - Phó Trưởng Phòng Xúc tiến đầu tư, Trung tâm Xúc tiến và Hỗ trợ đầu tư tỉnh nêu "Tỉnh xác định như thế nào về những thách thức, những nguy cơ đặt ra trước mắt và lâu dài đối với vùng kinh tế trọng điểm Miền Tây Nghệ An ? Tỉnh có giải pháp gì để đảm bảo mục tiêu chuyển dịch cơ cấu và tỷ trọng kinh tế của vùng Miền Tây theo hướng phát triển kinh tế rừng lâu năm, dược liệu, đặc sản vùng miền?"

Về nội dung này, Chủ tịch UBND tỉnh Thái Thanh Quý đã thông tin cụ thể Kết quả thực hiện phát triển kinh tế - xã hội miền Tây Nghệ An. Theo đó, miền Tây Nghệ An có tổng diện tích tự nhiên 13.747,69 km2 (chiếm 83,36% diện tích toàn tỉnh); Có 11 đơn vị hành chính cấp huyện và 217 đơn vị hành chính cấp xã (trong đó có 27 xã biên giới); Có 468,281 km đường biên với nước bạn Lào, có 01 cửa khẩu quốc tế (Nậm Cắn), 01 cửa khẩu quốc gia (Thanh Thuỷ); Dân số khoảng 1.156.000 người (chiếm 34,7% dân số toàn tỉnh); Đồng bào dân tộc thiểu số khoảng 491.000 người.

 Chủ tịch UBND tỉnh Thái Thanh Quý phát biểu tại hội nghị.


Chủ tịch UBND tỉnh cũng nhấn mạnh trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An: miền Tây được xác định là một trong 03 vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh, gắn kết với nhiều vùng quan trọng khác như vùng đồng bằng ven biển, vùng đô thị. Đây là vùng có nhiều lợi thế so sánh trong phát triển kinh tế về kinh tế rừng (có trên 1,6 triệu ha đất lâm nghiệp phục vụ sản xuất; 789,7 ha rừng tự nhiên); phát triển du lịch sinh thái (có vườn Quốc gia Pù Mát với trên 2.500 loài thực vật, 130 loài động vật quý hiếm); phát triển các ngành công nghiệp khai khoáng, vật liệu xây dựng (có 113 vùng mỏ lớn và 171 điểm quặng); phát triển thủy điện…Là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh, đối ngoại; có vai trò quyết định đối với môi trường sinh thái của Tỉnh; địa bàn có nhiều đồng bào các dân tộc cùng sinh sống gắn bó lâu đời với bản sắc văn hóa riêng.

Theo Chủ tịch UBND tỉnh Thái Thanh Quý xây dựng miền Tây Nghệ An vững mạnh toàn diện là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh lâu dài của tỉnh Nghệ An, khu vực Bắc Trung bộ và của cả nước. Vì vậy, khu vực miền Tây Nghệ An được Trung ương Đảng, Chính phủ, Đảng bộ và chính quyền tỉnh nhà dành sự quan tâm đặc biệt, cụ thể: Khu vực miền Tây Nghệ An được Bộ Chính trị đưa vào địa bàn thực hiện Nghị quyết số 37 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020; Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển kinh tế - xã hội miền Tây tỉnh Nghệ An đến năm 2020 tại Quyết định số 2355 ngày 04/12/2013; Nghệ An đã xây dựng và triển khai thực hiện nhiều chương trình, đề án phát triển miền Tây Nghệ An (31 đề án đang triển khai thực hiện, 4 đề án đang xây dựng).

 Miền Tây được xác định là một trong 03 vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh. (Ảnh Internet)


Sau hơn 05 năm thực hiện Quyết định 2355 ngày 04/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ, đến nay miền Tây Nghệ An đã có được một diện mạo, vai trò, vị thế mới. Quy mô và tiềm lực kinh tế có bước phát triển khá; Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2013-2018 đạt 8,4%, cao hơn bình quân chung toàn tỉnh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Đời sống của Nhân dân được nâng lên, thu nhập bình quân đầu người năm 2018 đạt 29,09 triệu đồng. Thu ngân sách trên địa bàn đạt khá, tốc độ tăng thu ngân sách bình quân giai đoạn 2013-2018 đạt 20,49%.

Sản xuất nông, lâm nghiệp chuyển dịch từ sản xuất nhỏ lẻ, tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa quy mô tập trung theo chuỗi giá trị gia tăng và phát triển bền vững, đã hình thành được một số vùng sản xuất cây nguyên liệu tập trung quy mô lớn gắn với phát triển công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm như: Mía, chè, cao su, cam, sắn, trồng rừng nguyên liệu,...

Chăn nuôi phát triển theo hướng quy mô trang trại gắn với công nghiệp chế biến, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, sử dụng giống tốt (nổi bật là chăn nuôi bò sữa gắn với chế biến sữa tại Nghĩa Đàn của Công ty Cổ phần thực phẩm sữa TH, chăn nuôi lợn quy mô công nghiệp tại Quỳ Hợp của Công ty Masan miền Bắc...).

Công nghiệp chế biến nông, lâm sản có bước chuyển biến mạnh từ sản xuất sản phẩm thô sang chế biến tinh, chế biến sâu, áp dụng công nghệ hiện đại, sản xuất các sản phẩm có giá trị cao, mở ra hướng mới về phát triển thị trường, như: Mía đường của Công ty TNHH mía đường Nghệ An; gỗ của Công ty CP Lâm nghiệp Tháng Năm; sản xuất nước tinh khiết, thảo dược và hoa quả của Tập đoàn TH;...).

Du lịch có bước chuyển biến tích cực, đã hình thành hai trung tâm du lịch tại 2 tuyến đường Quốc lộ 7 và Quốc lộ 48 (Trung tâm du lịch Vườn quốc gia Pù mát và Trung tâm du lịch văn hóa - sinh thái Quỳ Châu - Quế Phong).

Xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực. Đến hết năm 2018, trên địa bàn miền Tây Nghệ An có 64/203 xã (bằng 31,53%) đạt chuẩn NTM, trong đó có 04 xã khó khăn thuộc huyện 30a (huyện Tương Dương) đạt chuẩn NTM; Có 97 thôn, bản đạt chuẩn thôn, bản NTM và 01 đơn vị cấp huyện hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM (thị xã Thái Hoà); Số tiêu chí bình quân đạt được là 12,95 tiêu chí/xã.

Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm xây dựng, nhiều công trình trọng điểm đã và đang được thực hiện; tính liên kết về phát triển kinh tế - xã hội nội vùng và với ngoài vùng từng bước được hình thành thông qua hệ thống đường giao thông kết nối (nhất là tuyến đường Hồ Chí Minh, hệ thống đường giao thông kết nối giữa các tuyến đường QL7, QL46, QL48,...).

 Các đại biểu dự hội nghị.


Công tác giảm nghèo, giải quyết việc làm và các vấn đề an sinh xã hội đạt kết quả khá, tỷ lệ hộ nghèo giảm qua các năm (giai đoạn 2013-2018 giảm bình quân 3,4%/năm, năm 2018 giảm còn 13,97%, tương đương 39.548 hộ). An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định. Chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vũng. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được củng cố và từng bước nâng cao chất lượng,...

Bên cạnh những kết quả đạt được, Chủ tịch UBND tỉnh cũng khẳng định kinh tế - xã hội miền Tây còn phải đối mặt với nhiều thách thức, nguy cơ đặt ra trước mắt và lâu dài. Đó là, việc thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế quan trọng đạt kết quả còn thấp, như: Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2016-2018 đạt 8,1%/MT 2016-2020 đạt 10-11%; Chuyển dịch cơ cấu kinh tế năm 2018: nông nghiệp chiếm 34%, công nghiệp - xây dựng chiếm 29%, dịch vụ chiếm 37%/MT đến năm 2020 tương ứng đạt 24%-37%-39%; Thu ngân sách năm 2018 đạt 1.772 tỷ đồng/MT đến năm 2020 đạt 7.294 tỷ đồng,... kết quả thực hiện các chỉ tiêu trên chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của Vùng; chưa tạo được sự chuyển biến căn bản, đột phá quan trọng cho sự phát triển nhanh và bền vững của Vùng.

Bên cạnh đó, thu nhập bình quân đầu người còn thấp so với bình quân toàn tỉnh (năm 2018 đạt 29,02 triệu đồng, trong khi đó thu nhập bình quân đầu người toàn tỉnh năm 2018 đạt 38 triệu đồng, như vậy thu nhập bình quân đầu người miền Mây chỉ bằng khoảng 77% so với bình quân toàn tỉnh); Năng suất lao động chưa cao; Tỷ lệ hộ nghèo còn ở mức cao và kết quả giảm nghèo chưa thật sự bền vững (năm 2018 tỷ lệ hộ nghèo vùng miền Tây gấp 2,5 lần mức bình quân toàn tỉnh 13,97%/5,54%); Khoảng cách về thu nhập của dân cư khu vực miền Tây với vùng đồng bằng có nguy cơ gia tăng. Cùng với đó là việc khai thác tiềm năng, lợi thế về đất đai, tài nguyên khoáng sản hiệu quả chưa cao; Công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch, nhất là xây dựng, đất đai, khoáng sản chưa tốt; Du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng; Thu hút đầu tư còn hạn chế, nhất là các dự án FDI (giai đoạn từ năm 2013 đến nay chưa có dự án FDI nào triển khai thực hiện vào miền Tây Nghệ An); Hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp trên địa bàn còn thấp, sức cạnh tranh của sản phẩm còn hạn chế; Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Các vấn đề về môi trường do tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu dẫn đến lũ ống, lũ quét, ngập lụt, sạt lở đất ảnh hưởng đến tính mạng, tài sản của người dân và cơ sở hạ tầng trên địa bàn.

Các loại tội phạm, nhất là tội phạm ma túy, mua bán người; hoạt động truyền đạo trái pháp luật, di dịch cư trái phép qua biên giới và di dịch cư vào các tỉnh phía Nam vẫn còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp; khai thác trái phép lâm sản, khoáng sản còn nhiều; tệ nạn xã hội, một số hủ tục, tập quán lạc hậu chưa được xóa bỏ triệt để. Năng lực hoạt động của hệ thống chính trị ở một số nơi vẫn còn hạn chế,...

 Toàn cảnh hội nghị.


Chủ tịch UBND tỉnh cũng nhấn mạnh để đảm bảo mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng kinh tế rừng, cây dược liệu, cây đặc sản vùng miền Tây Nghệ An, cần tập trung thực hiện 6 giải pháp trọng tâm. Bao gồm: Tiếp tục thực hiện hiệu quả Quyết định số 2355 ngày 04/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án phát triển kinh tế - xã hội miền Tây tỉnh Nghệ An đến năm 2020 và Kết luận số 130 ngày 10/01/2019 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về kết quả 5 năm thực hiện Quyết định số 2355/QĐ-TTg.

Đây là những chủ trương, định hướng, mục tiêu, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội miền Tây mang tính tổng thể, toàn diện, bao trùm trên các lĩnh vực, trong đó có phát triển kinh tế rừng. Bên cạnh đó, tỉnh sẽ tập trung ưu tiên đầu tư phát triển các sản phẩm nông nghiệp chủ lực có lợi thế so sánh gắn với các cơ sở chế biến và tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ cao, như: kinh tế rừng (cây lâm nghiệp phục vụ chế biến gỗ, đồ gỗ,...), cây dược liệu (chú trọng phát triển các loại dược liệu có giá trị cao ở một số vùng sinh thái đặc thù, dược liệu dưới tán rừng,...) và các sản phẩm đặc sản, đặc hữu khác,...

Xây dựng và nhân rộng các mô hình kinh tế có hiệu quả phù hợp với từng vùng sinh thái trên địa bàn (Một số doanh nghiệp đã đã và đang triển khai các dự án trông cây dược liệu dưới tán rừng (TH), làm tỏi đen (DN Nhật Bản) tại Kỳ Sơn bước đầu mang lại kết quả rất tốt, nếu thành công, mỗi ha đất được sử dụng có thể cho thu nhập 250 triệu – 300 triệu, đây sẽ là hướng đi mới để Miền Tây Nghệ An có thể thoát nghèo). Đồng thời, tiến hành rà soát quy hoạch đất lâm nghiệp để phát huy cao nhất hiệu quả kinh tế rừng gắn với bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học; Ưu tiên bố trí nguồn lực, đồng thời xã hội hóa nguồn kinh phí để sớm hoàn thành công tác giao đất gắn với giao rừng cho các hộ dân, đảm bảo thực hiện các chính sách cho các hộ tham gia phát triển rừng, góp phần bảo vệ và phát triển bền vững lâm nghiệp. Đề xuất Trung ương có hướng dẫn cụ thể, đồng bộ, phù hợp với thực tế trong triển khai thực hiện Chỉ thị số 13-CT/TW ngày 12/01/2017 của Ban Bí thư (về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng) nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng về đất lâm nghiệp của vùng miền Tây.

Tập trung quản lý, bảo vệ và khoanh nuôi, nâng cao chất lượng rừng tự nhiên; bảo vệ và phát triển tốt diện tích rừng phòng hộ, rừng đặc dụng (với diện tích quy hoạch gần 520 ngàn ha, chiếm 37,5% diện tích tự nhiên của vùng miền Tây) để thực hiện chức năng bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học, chống lũ, đặc biệt là đảm bảo nguồn nước cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất trên địa bàn toàn tỉnh; xây dựng và triển khai chương trình bảo tồn, phát triển bền vững Vườn quốc gia Pù Mát theo cách tiếp cận mới, đảm bảo hài hòa lợi ích. Phát triển, nâng cao chất lượng rừng sản xuất, nhất là trồng rừng gỗ lớn trên cơ sở áp dụng các biện pháp thâm canh để nâng cao năng suất, sản lượng. Tỉnh cũng khuyến khích, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư vào nông, lâm nghiệp ở miền Tây để phát triển các vùng sản xuất tập trung gắn với công nghiệp chế biến, ứng dụng công nghệ cao, nâng chuỗi giá trị sản phẩm; Triển khai các điều kiện cần thiết để sớm hình thành khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại huyện Tân Kỳ, Nghĩa Đàn và những nơi khác có điều kiện; Ưu tiên nguồn lực để triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện tinh thần, thái độ làm việc của cán bộ, công chức, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để từng bước phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông, điện, nước..

Cùng với đó, tỉnh tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trên địa bàn phát huy tối đa năng lực hiện có, đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh. Phát huy tốt công suất các nhà máy chế biến đang hoạt động và tạo điều kiện để mở rộng quy mô một số nhà máy đã có đối với các sản phẩm có thế mạnh, như MDF Nghĩa Đàn và các nhà máy chế biến nông sản khác. Tập trung chỉ đạo các dự án trọng điểm cần đẩy nhanh tiến độ hoàn thành và tiếp tục kêu gọi đầu tư góp phần làm tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu với tốc độ cao hơn, như: MDF Anh Sơn, nhà máy chế biến hoa quả Nghĩa Đàn, chế biến dược liệu, các sản phẩm đồ gỗ.. Rà soát, bổ sung phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn; sớm hoàn thành xây dựng hạ tầng các khu, cụm công nghiệp đã được quy hoạch để thu hút các dự án đầu tư nhằm đảm bảo mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng kinh tế rừng, cây dược liệu, cây đặc sản vùng miền.

 Đồng chí Trần Thị Mỹ Hà- TP Quản lý thương mại, Sở Công thương nêu: "Trong thời gian tới, tỉnh ta có kế hoạch, giải pháp nào để tăng các chỉ số PCI, PAPI, PARINDEX ?


Liên quan đến vấn đề đồng chí Trần Thị Mỹ Hà- TP Quản lý thương mại, Sở Công thương nêu: "Trong thời gian tới, tỉnh ta có kế hoạch, giải pháp nào để tăng các chỉ số PCI, PAPI, PARINDEX ? Tỉnh có quy định, chính sách nào hỗ trợ cán bộ, công chức, viên chức trong việc hiến kế, chung tay đẩy mạnh cải cách hành chính, góp phần nâng cao các chỉ số nêu trên?", Chủ tịch UBND tỉnh Thái Thanh Quý cho biết: kế hoạch, giải pháp để tăng các chỉ số. Theo đó, trong những năm qua, công tác cải CCHC của Tỉnh đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận. Cơ chế, chính sách được ban hành, sửa đổi, bổ sung kịp thời đáp ứng các yêu cầu quản lý nhà nước. Việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông đã tạo thuận lợi cho người dân, tổ chức, doanh nghiệp trong giải quyết thủ tục hành chính, các dịch vụ công đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu giải quyết công việc của Nhân dân; lề lối, phương thức làm việc đã được chấn chỉnh và đi vào nề nếp, việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý nhà nước đã hỗ trợ tốt cho công tác CCHC. Trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước tốt hơn, các hoạt động tham gia, giám sát của người dân được tăng cường và mối quan hệ giữa chính quyền các cấp và người dân đã được cải thiện nhiều so với trước. Trên cơ sở đó, các chỉ số PCI, PAPI, PARINDEX của tỉnh năm 2018 đều tăng so với năm 2017.

PCI (chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh), năm 2018 tổng điểm PCI Nghệ An đạt 64,08, xếp thứ 19/63 tỉnh, thành cả nước, tăng 02 bậc so với năm 2017 và lọt vào top 20 cả nước, nằm trong các tỉnh có chỉ số PCI khá, tiếp tục là tỉnh dẫn đầu khu vực Bắc Trung bộ. Tuy nhiên vẫn còn một số chỉ số thành phần còn thấp và chưa được cải thiện nhiều như: Chi phí không chính thức (xếp hạng 59/63), Cạnh tranh bình đẳng (xếp hạng 54/63), Chi phí thời gian (xếp hạng 51/63),...

PAPI (chỉ số Hiệu quả quản trị và Hành chính công) đo lường hiệu quả và quản trị hành chính công cấp tỉnh dựa trên trải nghiệm và đánh giá của người dân khi tương tác với chính quyền địa phương. Năm 2018, chỉ số PAPI của Nghệ An xếp thứ 4 toàn quốc với 46,57 điểm/80 điểm (tăng 40 bậc). Tuy nhiên vẫn còn một số trục nội dung thành phần xếp thứ hạng chưa cao như: Quản trị môi trường (xếp hạng 35/63), Kiểm soát tham nhũng trong khu vực công (xếp hạng 29/63), Cung ứng dịch vụ công (21/63),... (Năm 2018, PAPI bổ sung thêm 02 trục nội dung là Quản trị điện tử (Sử dụng Cổng TTĐT của chính quyền địa phương và Tiếp cận, sử dụng Internet tại địa phương) và Quản trị môi trường. Năm 2018, chỉ số Quản trị môi trường xếp thứ 35/63 tỉnh thành, còn chỉ số Quản trị điện tử mặc dù xếp thứ 5/63 tỉnh, thành và thứ 1/6 tỉnh Bắc Trung Bộ nhưng chỉ đạt 3,7/10 điểm, trong đó điểm nội dung thành phần Sử dụng Cổng TTĐT đạt rất thấp 0,69/5 điểm, nội dung thành phần Tiếp cận và sử dụng Internet tại địa phương đạt 3,01/5 điểm).

PARINDEX (Chỉ số cải cách hành chính), là công cụ quan trọng để theo dõi, đánh giá hoạt động CCHC. PARINDEX năm 2018 của Nghệ An đạt 76,96 điểm (giảm 1,31 điểm so với năm 2017), xếp thứ 29/63 tỉnh, thành cả nước (tăng 02 bậc so với năm 2017). Tuy nhiên, vẫn còn một số chỉ tiêu thành phần xếp hạng thấp như: Xây dựng, tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật (xếp hạng 62/63); Hiện đại hóa hành chính (xếp hạng 40/63); Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước (xếp hạng 33/63);,...

Chủ tịch UBND tỉnh cũng nêu các kế hoạch, giải pháp cụ thể cho từng chỉ số: Đối với chỉ số PCI, tỉnh đã có Đề án cải thiện, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh từ năm 2012 (Quyết định phê duyệt số 2595 ngày 13/7/2012 của Chủ tịch UBND tỉnh). Hàng năm, UBND tỉnh đều rà soát, đánh giá lại kết quả thực hiện các chỉ số thành phần, đưa ra các giải pháp khắc phục và giao trách nhiệm cho các ngành, địa phương thực hiện và chịu trách nhiệm. Bên cạnh đó, Tỉnh sẽ xây dựng và thực hiện đánh giá chỉ số năng lực cạnh tranh cấp ngành/huyện (DDCI), hướng đến việc tạo động lực cạnh tranh thực sự giữa các ngành, địa phương trong cải cách hành chính, đặc biệt là cạnh tranh giữa các địa phương để thu hút đầu tư.

Đối với chỉ số PAPI và PARINDEX, Tỉnh đang giao cho Sở Nội vụ chủ trì xây dựng Đề án cải thiện chỉ số PARINDEX và chỉ số PAPI của tỉnh, đánh giá đầy đủ các tồn tại, yếu kém, phân tích sâu, khách quan các nguyên nhân và đưa ra các giải pháp cụ thể để nâng cao đối với từng chỉ số thành phần. Giao trách nhiệm cụ thể cho từng ngành, đơn vị đảm nhận thực hiện các chỉ số thành phần. Đề ra lộ trình tăng các chỉ số cụ thể theo từng năm để phấn đấu và chuẩn bị các nguồn lực để thực hiện.

Về kế hoạch, giải pháp chung để nâng cao các chỉ số, Chủ tịch UBND tỉnh Thái Thanh Quý khẳng định tỉnh đang xây dựng và sẽ đưa Trung tâm Phục vụ hành chính công vào hoạt động trong cuối tháng 12/2019 hoặc đầu tháng 01/2020. Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh với sự phối hợp giải quyết theo thẩm quyền của các cơ quan, đơn vị sẽ rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí cho cá nhân, tổ chức trong quá trình giải quyết các TTHC; tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức chỉ đến một nơi duy nhất để giải quyết các TTHC. Tạo lập một môi trường làm việc thống nhất, thuận tiện, văn minh, hiện đại; tích hợp được các nguồn lực về con người, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật; tiếp nhận trực tiếp, nhanh chóng, kịp thời sự chỉ đạo của lãnh đạo UBND tỉnh;Tiếp tục rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, nhất là các thủ tục liên quan trực tiếp đến người dân, doanh nghiệp. Cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình thực hiện công vụ, nhiệm vụ được giao cần phát huy ý thức trách nhiệm, tích cực rà soát nhằm phát hiện những thủ tục, hồ sơ, giấy tờ trái quy định hoặc không cần thiết để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ. Nâng cao tinh thần, trách nhiệm, đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những người thường xuyên tiếp xúc, trao đổi công việc với Nhân dân. Tới đây, cùng với việc chỉ đạo sắp xếp bộ máy, tỉnh sẽ giao cho Sở Nội vụ chủ trì, phối hợp với các đơn vị khảo sát lại chất lượng cán bộ những nơi, những bộ phận thường xuyên tiếp xúc, giải quyết các TTHC cho người dân, doanh nghiệp. Để đảm bảo việc bố trí cán bộ, công chức, viên chức làm việc ở bộ phận này đủ đáp ứng các yêu cầu nắm chắc nghiệp vụ, chuyên môn, có kinh nghiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp. Hằng năm giao cho Sở Nội vụ phải thường xuyên giám sát, chỉ đạo, đôn đốc để thực hiện tốt công vụ tại những bộ phận này trong toàn tỉnh. Tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động công vụ; trong đó tập trung nâng cấp Cổng Thông tin điện tử của tỉnh và Hệ thống Thư điện tử nhằm phục vụ tốt hơn cho công tác chỉ đạo, điều hành của tỉnh và cung cấp thông tin cho người dân, doanh nghiệp. Đầu tư nâng cấp và vận hành hiệu quả Cổng dịch vụ công trực tuyến và Hệ thống thông tin một cửa điện tử của tỉnh để thống nhất việc theo dõi, quản lý cơ sở dữ liệu và giám sát tiến độ, kết quả giải quyết công vụ; Đẩy mạnh việc cung cấp dịch vụ công mức độ 3, 4 lên cổng thông tin điện tử; Công khai nội dung giải quyết kiến nghị của người dân, doanh nghiệp trên các trang thông tin điện tử. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá việc triển khai thực hiện CCHC ở các cấp. Thực hiện đánh giá, xếp hạng CCHC các sở, ngành, địa phương khách quan, chính xác. Trong thời gian tới, tỉnh sẽ chỉ đạo triển khai xây dựng và đưa vào vận hành phần mềm đánh giá xếp loại công tác CCHC của sở, ngành, địa phương và phần mềm đánh giá việc giải quyết thủ tục hành chính để công tác đánh giá, xếp loại khách quan, trung thực, khoa học, minh bạch, công khai.

 Tỉnh sẽ tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá việc triển khai thực hiện CCHC ở các cấp.


Về chính sách hỗ trợ cán bộ, công chức, viên chức trong việc hiến kế, chung tay đẩy mạnh CCHC trong thời gian tới, Chủ tịch UBND tỉnh Thái Thái Quý cũng cho biết thời gian qua, Tỉnh đã ban hành các chính sách để hỗ trợ CB, CC, VC trực tiếp tham mưu, thực hiện công tác CCHC, như: Nghị quyết số 131/2014/NQ-HĐND ngày 16/7/2014 của HĐND tỉnh quy định về nội dung chi, mức chi thực hiện các hoạt động kiểm soát thủ tục hành chính; Nghị quyết số 22/2016/NQ-HĐND ngày 04/8/2016 của HĐND tỉnh về mức hỗ trợ cho cán bộ, công chức, viên chức làm việc tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông; Quyết định số 30/2019/QĐ-UBND ngày 31/7/2019 của UBND tỉnh về Quy định đánh giá, xếp hạng công tác Cải cách hành chính của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh Nghệ An...Qua đó, nhằm động viên, khích lệ đội ngũ CB, CC, VC tiếp tục nâng cao trách nhiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phát huy năng lực góp phần thực hiện công tác CCHC ngày một hiệu quả và phục vụ Nhân dân tốt hơn.

Tới đây, Tỉnh sẽ tiếp tục rà soát, nghiên cứu để điều chỉnh, bổ sung các chế độ hỗ trợ cho CB, CC, VC trực tiếp tham mưu, thực hiện công tác CCHC, đặc biệt là CB, CC, VC làm việc tại Trung tâm Phục vụ hành chính công của tỉnh và Bộ phận một cửa cấp huyện, xã. Đối với việc khen thưởng, hỗ trợ những tập thể, cá nhân có sáng kiến, hiến kế chung tay đẩy mạnh CCHC: Tỉnh sẽ nghiên cứu có chính sách ưu tiên xem xét việc khen thưởng, đề bạt, bổ nhiệm, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng những cơ quan, đơn vị, cá nhân có sáng kiến và thành tích xuất sắc trong CCHC. Giao cho Sở Nội vụ, Ban thi đua khen thưởng tỉnh nghiên cứu cơ chế khen thưởng, hỗ trợ đưa vào Quy chế thi đua khen thưởng của tỉnh để thực hiện. Bên cạnh việc khen thưởng cũng cần có cơ chế phê bình, kỷ luật đối với tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu không hoàn thành nhiệm vụ CCHC, không quan tâm, chú trọng đẩy mạnh CCHC tại cơ quan, đơn vị mình. Đối với việc xếp loại cuối năm, các sở, ngành, địa phương khi xét khen thưởng cho tập thể, cá nhân, cần phải đưa kết quả thực hiện nhiệm vụ CCHC của tập thể, cá nhân để xem xét, quyết định việc phân loại.

Những nội dung của công tác CCHC liên quan đến toàn bộ các hoạt động của hệ thống chính trị. Vấn đề có ý nghĩa quyết định sự thành công trong công tác này là ý thức chủ động, tự giác của mỗi cán bộ, công chức, viên chức chúng ta, vì vậy Chủ tịch UBND tỉnh đề nghị mỗi cán bộ, công chức, viên chức dù ở vị trí nào đều phải đoàn kết, gương mẫu, năng động, sáng tạo, hết lòng, hết sức phục vụ Nhân dân. Chủ tịch UBND tỉnh cũng bày tỏ nhận được nhiều hiến kế từ các lãnh đạo phòng cấp tỉnh trong công tác CCHC. Đồng thời, tin rằng đội ngũ trưởng, phó phòng cấp tỉnh có đủ trí tuệ để tìm ra những sáng kiến hiệu quả giúp tỉnh trong công tác CCHC.