Hành trình dấn thân từ cô gái quê thành mẹ mìn khóc ròng ngày Tết
- 17:06 09-02-2019
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Từ một nạn nhân tội nghiệp
Trước khi xuống Phân trại số 1 (Trại giam Hoàng Tiến, Chí Linh, Hải Dương) gặp Nguyễn Thị Dân, tôi đã được một cán bộ quản giáo sơ qua về nhân thân cũng như nguyên do vướng vòng lao lý của nữ phạm nhân này. Dân còn có tên gọi khác là Hương (sinh năm 1972, trú tại thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, Bắc Giang).
Năm 2005, sau khi mở rộng điều tra một số vụ án mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới, phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội - Công an Thành phố Hà Nội đã xác định Nguyễn Thị Dân liên quan đến nhiều vụ mua bán phụ nữ, trẻ em sang Trung Quốc qua cửa khẩu Lạng Sơn, sau đó đưa vào các động chứa làm gái mại dâm. Nguyễn Thị Dân từng là nạn nhân bị lừa bán sang Trung Quốc và sống ở khu vực Pò Chài.
Theo lời khai của những bị hại may mắn được trở về, mỗi phụ nữ được bán sang Trung Quốc có giá từ 7.000 - 9.000 nhân dân tệ (NDT). Thời gian đầu, với vai trò môi giới mua bán phụ nữ, Nguyễn Thị Dân được hưởng từ 800 - 1.000 NDT/người. Năm 2004, thấy việc kinh doanh thân xác phụ nữ ở bên kia biên giới Việt - Trung vừa dễ dàng, vừa đem lại lợi nhuận cao, Dân đã trực tiếp tổ chức hoạt động mại dâm tại khu vực buôn bán sầm uất Pò Chài. Tiếp đó, Dân mở rộng đến các khu vực khác là Bằng Tường, Ninh Minh và Bắc Hải (Trung Quốc).
Nguyễn Thị Dân miệt mài cải tạo để sửa chữa lỗi lầm. |
Thời điểm đó, hàng chục phụ nữ, trẻ em sau khi bị các "mẹ mìn" lừa gạt đưa qua biên giới đã được Nguyễn Thị Dân mua lại để phục vụ khách mua dâm. Trong đó có hai trường hợp đang là sinh viên đại học ở Hà Nội.
Lệnh truy nã đặc biệt đối với Nguyễn Thị Dân được phát đi. Nhận được thông tin phối hợp của CATP Hà Nội, sau khi điều tra bắt giữ, ngày 8/6/2007, Công an Trung Quốc và lực lượng Interpol đã bàn giao Nguyễn Thị Dân cho Công an Việt Nam. Tháng 4/2008, vụ án của Nguyễn Thị Dân được đưa ra xét xử và bản án chung thân là cái giá Dân phải trả do tội lỗi của mình.
Trái với hình dung của tôi, nữ phạm nhân được mệnh danh "mẹ mìn" vẫn mang vẻ hiền lành, chất phác của người nông dân năm xưa. Điểm gây chú ý khi lần đầu tiếp xúc là Nguyễn Thị Dân có vóc dáng cao lớn, ước chừng 1,7m. Dân nói chậm, nhưng có cách kết nối sự việc khiến người nghe phải chú tâm: "Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo và đông con. Lúc nhỏ tôi hay bị ốm nên tới năm lên 8 tôi mới được đi học lớp một. Vì già dặn và cao lênh khênh trước các bạn cùng lớp nên tôi luôn bị chế giễu. Tôi xấu hổ và bỏ học khi chưa hết lớp hai. Ở quê tôi, con gái lấy chồng rất sớm nếu không theo học đại học. Tôi cũng vậy, 17 tuổi đã bước chân về nhà chồng dù gia đình tôi không đồng ý. Sở dĩ gia đình tôi ngăn cản là vì biết chồng tôi là người chơi bời. Quả vậy, năm 1991, tôi mới 19 tuổi, sau khi sinh con trai được 13 tháng, tôi đã phải rời khỏi nhà chồng vì không chịu đựng nổi thói chơi bời và những trận đòn của anh ta. Vì muốn níu giữ tôi, gia đình chồng nhất quyết giữ đứa bé lại.
Tôi còn nhớ, lúc đó tôi như không còn phương hướng bởi gia đình bố mẹ đẻ không chấp nhận cho tôi quay về. Tôi ăn nhờ ở đậu một số người họ hàng. Sau rồi mặc cho bố mẹ trách mắng, tôi cứ về nhà ở lỳ và ngày ngày đi chợ. Tôi thường mua đỗ, lạc của bà con rồi bán lại cho một số người thu mua hàng đem đi Lạng Sơn. Qua việc chạy chợ, tôi gặp một người phụ nữ nói là người Lạng Sơn và cần tìm người phụ giúp việc thu mua lạc, đỗ tại Lạng Sơn. Biết hoàn cảnh của tôi, chị ta tỏ vẻ thương cảm và hứa sẽ trả cho tôi 2 triệu đồng/tháng. Tôi thấy mình như đang mơ vì thời điểm đó kiếm được 2 triệu đồng là cả một vấn đề. Tôi đâu biết mình đã bị lừa bán sang Trung Quốc".
Trở thành "mẹ mìn"
Nguyễn Thị Dân kể: "May mắn hơn một số nạn nhân trong chuyến đi, tôi không phải lấy người già hay bị tống vào địa bàn sâu xa mà được một người đàn ông Trung Quốc 30 tuổi, chưa từng lập gia đình làm nghề buôn bán ở Pò Chài mua về làm vợ. Nhưng khổ nỗi anh ta chỉ coi tôi như một vật trông nhà để anh ta mặc sức chơi bời. Năm 1993, tôi xin anh ta cho tôi được tự do và điều tôi ngạc nhiên nhất là anh ta tỏ ra thông cảm và cho tôi một khoản tiền đủ để tôi buôn bán nhỏ kiếm sống. Tôi thuê quán bán cháo, phở tại Pò Chài. Ngay trong năm 2003, cuộc đời tôi lại rẽ sang một ngả khác là gặp người đàn ông tên Toàn, người Việt gốc Hoa. Toàn làm phiên dịch cho một công ty ở gần khu vực tôi bán hàng.
Tôi sinh liền hai đứa con, một trai, một gái và điều đó khiến Toàn thương yêu tôi hơn. Không muốn phụ thuộc vào chồng, tôi sớm tối tần tảo lo cho con và bán hàng. Thời điểm đó, phụ nữ Việt Nam bị bán sang Trung Quốc rồi được mua đi bán lại nhiều lắm. Rồi chỉ vì lòng tham và kém hiểu biết pháp luật, tôi đã nghe theo lời một số người là mua người về phục vụ bán hàng hoặc mở tiệm cắt tóc gội đầu thì sẽ đông khách, thế là tôi làm.
Tôi đâu có biết làm như vậy là vi phạm pháp luật. Tôi thấy người ta mua thì cũng mua, thấy người ta giới thiệu "hàng" cho chỗ này chỗ kia thì cũng giới thiệu. Thấy các em trẻ đẹp tôi càng mừng, chứ có biết đâu các em dưới 18 tuổi là vị thành niên. Tôi hiểu ra thì muộn quá rồi. Tôi đang phải trả giá, phải gánh chịu bản án thích đáng. Bởi dù với lý do gì thì tôi cũng đã tiếp tay cho những kẻ buôn người, gây đau thương, mất mát cho bao cuộc đời, bao gia đình. Khi lĩnh bản án chung thân và vào Trại giam Hoàng Tiến, tôi càng nhận ra giá trị của cuộc sống. Tôi thấm thía và thực sự ân hận.
Giờ đây tôi quặn lòng khi nghĩ đến ba đứa con. Đứa lớn gần nhất mà hoá xa bởi hoàn toàn thiếu bàn tay chăm sóc của mẹ. Hai đứa nhỏ thì ở phương trời tít tắp. Kể từ khi vào trại, hơn 9 năm qua, Toàn có đến thăm tôi hai lần vào 3 năm đầu, còn từ đó đến nay thì không. Vì xa xôi, lại không có điều kiện, gia đình tôi ở Bắc Giang cũng rất ít khi tới trại. Tôi hình dung ra nếu may mắn tôi được giảm án ra trại thì lúc đó bố mẹ tôi không còn, các con xa lánh tôi như người xa lạ. Tôi sợ nhất điều này, sợ hơn tất thảy những gì tôi đã, đang phải nếm trải", Dân ôm mặt khóc nghẹn.
Đôi môi Dân khi nói đến tình mẫu tử càng run lên bần bật: "Đêm đêm, tôi thường tự đặt ra câu hỏi, làm thế nào để góp phần phụng dưỡng bố mẹ và lo cho các con khi mà bản án chung thân cột chặt trên đầu? Giá như tôi dừng lại công việc của người bán quà sáng. Giá như tôi dừng lại sau khi gặp được người đàn ông quảng đại là Toàn. Tôi phải làm sao để lấy lại được những điều quý giá đó?
Ở nơi cải tạo này, mỗi phạm nhân đều có hoàn cảnh, nguyên do vướng vòng lao lý, những nỗi trăn trở và dự định tương lai sau khi ra trại. Riêng tôi thì khác. Với bản án chung thân, sau những đêm dài dằn vặt, giờ tôi không dám nghĩ tới tương lai vì nếu tôi may mắn được bước ra khỏi trại thì cũng là lúc cuối đời. Tôi biết đi đâu về đâu khi những người chồng và những đứa con mỗi người một ngả? Các cán bộ ở đây tốt lắm, thường động viên, an ủi, giúp đỡ tôi vượt qua mặc cảm tội lỗi để có ngày trở về. Vì vậy, tôi luôn cố gắng cải tạo, để không phụ lòng các cán bộ...".