Nghệ An: Thực trạng an toàn hồ đập trên địa bàn thật sự đáng lo ngại
- 20:41 16-08-2018
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Ông Nguyễn Sỹ Hưng, Giám đốc Chi cục Thủy lợi thông báo tình hình trên địa bàn. |
Theo báo của của Chi cục Thủy lợi Nghệ An, hiện nay trên địa bàn có 2 hệ thống thuỷ nông lớn (hệ thống thuỷ nông Bắc và hệ thống thuỷ nông Nam) với hơn 625 hồ chứa, 427 đập dâng cùng hàng trăm trạm bơm điện, cống tưới, tiêu lớn nhỏ.
Trong thời gian từ 2005 đến nay, Sở NN-PTNT, các công ty thủy nông, các địa phương mới tiến hành sửa chữa nâng cấp trên 150 hồ, hiện vẫn còn khoảng 500 hồ chưa có kinh phí để triển khai.
Rà soát thực tế cho thấy tình trạng an toàn hồ đập trên địa bàn thật sự đáng lo ngại. Phần đa các cống lấy nước dưới đập đều gặp sự cố (bị rò nước ở mang, bục hoặc kẹt cửa cống, sập vòm cống...), nhiều công trình hồ, đập bằng đất xây dựng đã lâu (những năm 70 - 80) nên chất lượng không đảm bảo.
Cống Diễn Thành đang trong quá trình thi công. |
Lúc này mới chỉ có hồ Vực Mấu đáp ứng được theo tiêu chí của WB về tần suất lũ kiểm tra 0.01%, tuy nhiên tại khu vực cống lấy nước của công trình này đang gặp sự cố nhưng vẫn chưa được sửa chữa.
Từ thực tế trên, ngành nông nghiệp tỉnh Nghệ An đề nghị Tổng Cục Thủy lợi bố trí, hỗ trợ sửa chữa, nâng cấp 57 hồ chứa xung yếu với tổng kinh phí thực hiện gần 537 tỷ đồng. Trong đó, nhóm ưu tiên 1 gồm 7 công trình với tổng vốn đầu tư 107 tỷ đồng, còn lại dành cho nhóm ưu tiên 2 với 50 công trình.
Khu vực cống lấy nước của hồ Vực Mấu đang có vấn đề?. |
Sau khi kiểm tra tình hình ở công trình cống Diễn Thành và hồ Vực Mấu, ông Nguyễn Văn Tỉnh - Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy lợi đề nghị địa phương cùng các đơn vị liên quan phải tập trung triển khai đúng nội dung công điện Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống thiên tai.
“Đối với các hồ chứa lớn có cửa van điều tiết thì phải chủ động hạ thấp nguồn nước để chống lũ, đồng thời phải thường xuyên theo dõi thông tin khí tượng thủy văn. Đặc biệt, là lượng mưa để tính toán xả lũ một cách hợp lý, vừa đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công trình đầu mối, đồng thời không gây ngập úng vùng hạ du.
Những hồ chứa nhỏ, thân đập được xây dựng bằng đất, trong trường hợp nước dâng cao, nếu phát hiện thấy sự cố thì khẩn trương mở rộng thêm các khoang tràn xả lũ. Với các hồ chứa xung yếu có nguy cơ mất an toàn, tuyệt đối không được tích nước hoặc tích nước hạn chế để đảm bảo an toàn…”, ông Tỉnh nhấn mạnh.
Nghệ An có 2 hệ thống thuỷ nông lớn (hệ thống thuỷ nông Bắc và hệ thống thuỷ nông Nam), Có hơn 625 hồ chứa, 427 đập dâng, 701 trạm bơm điện, 15 tuyến tiêu lớn, hàng trăm cống tưới, tiêu lớn nhỏ. Trong đó có các hồ chứa có dung tích vừa và lớn như hồ Vực mấu, Sông Sào, Vệ Vừng, Khe Đá . . . Các cống đầu mối tưới, tiêu lớn: Mụ Bà, Diễn Thành, Diễn Thuỷ, Nam Đàn, Bến Thuỷ, Nghi Quang; hơn 6.000km kênh mương (có gần 4.300km kênh mương đã được kiên cố hoá), hàng trăm cống tưới tiêu lớn nhỏ; Hàng năm các công trình thủy lợi đã cấp nước tưới cho hơn 250 nghìn ha, giải quyết tiêu cho 52.000 ha, cung cấp nước cho các ngành kinh tế và sinh hoạt của nhân dân góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của Tỉnh.
Hiện Nghệ An có 7 Doanh nghiệp gồm: Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên thuỷ lợi Bắc, Nam, Thanh Chương, Tây Nam, Tân Kỳ, Phủ Quỳ, Tây Bắc, đảm nhiệm việc quản lý vận hành, khai thác và bảo vệ các công trình thủy lợi chính. |
Hiện Nghệ An có 7 Doanh nghiệp gồm: Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên thuỷ lợi Bắc, Nam, Thanh Chương, Tây Nam, Tân Kỳ, Phủ Quỳ, Tây Bắc, đảm nhiệm việc quản lý vận hành, khai thác và bảo vệ các công trình thủy lợi chính, bao gồm: Hệ thống thủy nông Bắc - Nam và 95 hồ đập loại lớn, 61 trạm bơm, 260 đập dâng và 2 hệ thống thuỷ nông lớn (hệ thống thuỷ nông Bắc và hệ thống thuỷ nông Nam).
Các đơn vị do UBND cấp huyện quản lý: UBND cấp xã, các HTX, tổ đội thuỷ nông quản lý các công trình độc lập nằm gọn trong địa bàn xã gồm có hơn 530 hồ đập loại nhỏ, 640 trạm bơm và 167 đập dâng và phần kênh mương nội đồng (Công trình đầu mối, kênh cấp I, II do Doanh Nghiệp quản lý).
Nghệ An là tỉnh miền núi, địa hình bị chia cắt, các công trình thủy lợi chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ vì vậy chi phí quản lý vận hành các công trình thủy lợi cao hơn so với các tỉnh vùng đồng bằng, trong khi mức cấp bù do miễn thủy lợi phí của vùng trung du và miền núi thấp nên các đơn vị quản lý thủy nông trên địa bàn tỉnh hầu hết thu không đủ chi, dẫn đến khó khăn trong việc phục vụ sản xuất.
Bảng phân loại hồ chứa theo các nhóm dung tích
TT
|
TÊN HUYỆN
|
TỔNG SỐ HỒ CHỨA
|
>10 triệu m3
|
5-:-10 triệu m3
|
1-:-5 triệu m3
|
0,2-:-1 triệu m3
|
<0,2 tr.m3
|
1
|
Đô Lương
|
45
|
1
|
5
|
32
|
7
| |
2
|
Anh Sơn
|
35
|
6
|
3
|
26
| ||
3
|
Diễn Châu
|
11
|
1
|
1
|
7
|
2
| |
4
|
Con Cuông
|
5
|
0
|
0
|
5
| ||
5
|
Quỳ Hợp
|
18
|
1
|
11
|
6
| ||
6
|
Quỳ Châu
|
4
|
1
|
1
|
2
| ||
7
|
Yên Thành
|
111
|
1
|
6
|
33
|
71
| |
8
|
Nam Đàn
|
42
|
3
|
9
|
30
| ||
9
|
Hưng Nguyên
|
4
|
1
|
0
|
3
| ||
10
|
Nghĩa Đàn
|
85
|
2
|
4
|
33
|
46
| |
11
|
Nghi Lộc
|
32
|
1
|
8
|
6
|
17
| |
12
|
Thanh Chương
|
74
|
1
|
3
|
6
|
64
| |
13
|
Tân Kỳ
|
69
|
3
|
37
|
29
| ||
14
|
Quế Phong
|
3
|
0
|
0
|
3
| ||
15
|
Quỳnh Lưu
|
85
|
1
|
4
|
5
|
28
|
47
|
16
|
Hoàng Mai
|
2
|
1
|
1
|
0
| ||
Cộng
|
625
|
6
|
6
|
48
|
207
|
358 |