Người cựu chiến binh gần 40 năm đi tìm phần mộ đồng đội
- 15:37 27-07-2017
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Tôi đến gặp cựu chiến binh Trần Ánh Yên vào một ngày cuối tháng 7 tại căn nhà tạm ven quốc lộ 7 cạnh Nghĩa trang liệt sỹ quốc tế Đô Lương (xã Đà Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An) lúc ông đang bận bịu với công việc chăm sóc, vận chuyển cây cảnh.
Tuy đã bước qua tuổi 69 nhưng khi hỏi về những năm tháng “vào sinh ra tử” thời trai trẻ, mắt người thương binh già với dáng người nhỏ thó ấy lại sáng như lớp trai làng sục sôi lên đường đánh Mỹ năm nào.
Bảo tàng kỷ vật kháng chiến
Rót nước chè xanh mời khách, ông Yên cho biết mình nhập ngũ năm 1968, hai năm liền là lính công binh của đoàn 22 thuộc Quân khu 4. Thuở ấy, ông từng tham gia mở đường, đào hào bảo vệ vùng biển Nghi Lộc, Cửa Lò (Nghệ An) chống sự xâm lấn của tàu chiến Mỹ. Sau đó, ông Yên được biên chế vào Trung đoàn 271 đi Thượng Lào chiến đấu trong môi trường núi rừng hiểm trở một năm trời mới trở về làm đường 9 – Khe Sanh.
![]() |
Ông Yên bên những kỷ vật kháng chiến. Ảnh Duy Ngợi. |
Trong Trung đoàn 271 anh hùng, ông Yên là một người sống và gắn bó lâu năm nhất từ khi vào lính đến lúc xuất ngũ (1968-1989). Sau nhiều năm chiến đấu vô cùng gian khổ, năm 1988, ông về đoàn tụ cùng vợ con với quân hàm đại úy. Hòa bình lập lại, ông góp nhặt, dành dụm từng đồng để mỗi khi có dịp là về lại chiến trường xưa để nhặt nhạnh từng kỷ vật kháng chiến và tìm kiếm phần mộ đồng đội.
Nói về việc làm của mình, ông tâm sự: Thời bấy giờ, thanh niên trai tráng đều hăng hái đi bộ đội. Trước khi ra đi, không ai dám nghỉ đến ngày về. Trong quân ngũ, tình đồng chí, đồng đội có khi còn thắm thiết hơn anh em ruột thịt. Qua bao nhiêu trận chiến gian khổ, qua bao chiến trường khốc liệt, tôi chứng kiến bao đồng đội nhẹ thì bị thương, nặng thì vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường. Sau chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, được sống sốt trở về với tôi đó là một niềm hạnh phúc nhưng không vì thế mà tôi quên hết tình đồng chí, đồng đội. Do đó, những kỷ vật đã theo mình vào sinh ra tử suốt những năm kháng chiến mới thấy có ý nghĩa và tôi đã giữ lại”.
Thêm nữa, sau những lần đi thăm lại chiến trường xưa, thăm đồng đội thấy những vật dụng của đồng đội ông đều tìm cách mang về. Đến giờ, trong căn nhà tạm của ông đã có hàng chục kỷ vật chiến tranh.
Ông Yên cho biết, với ông kỷ vật nào cũng quý, cũng gắn nhiều kỷ niệm nhưng như chiếc lưỡi cưa lúc ở nhà nó quá bình thường nhưng với người lính lúc chiến đấu nơi rừng sâu thì đó thật là một dụng cụ quan trọng vì không có nó thì không thể dựng lán được nên ông vẫn cất giữ rất cẩn thận.
Trong hàng chục kỷ vật của người cựu binh ở tuổi đã “gần đất xa trời”, lâu nhất, có ý nghĩa nhất là chiếc đài radio. Ông nhớ lại, những lúc hành quân trên đường Trường Sơn, ngày đi đêm nghỉ mang hai cơ số đạn, ăn không đủ no, có chiếc đài của anh chính trị viên phát những bài ca kháng chiến, chương trình thời sự, tuy mệt nhưng vẫn cố gắng theo cho kịp chính trị viên để được nghe tiếng đài.
Vừa nói, ông vừa cho tôi xem, vừa chỉ dẫn rõ công dụng và nguồn gốc xuất xứ của từng vật dụng thân thuộc với người lính từ đơn giản như chiếc bật lửa, ghi đông, lưỡi cưa, đèn chiến đấu đến những vật dụng phức tạp như ống nhòm, đồng hồ pháo binh, vỏ bom bi, hay chiếc lược nhôm tự tay ông làm để tặng cho người yêu cũng là vợ của ông… tất cả đều được ông cất giữ cẩn thận.
“Tôi cóp nhặt, giữ lại những kỷ vật này cũng là để luôn nhớ đến một thời oanh liệt mà hào hùng của những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những vật dụng đơn giản nhưng đằng sau nó là biết bao câu chuyện cảm động của những người lính nơi chiến trường”, ông Yên chia sẻ. Những lúc đồng đội đến chơi, ông thường mang ra để cùng hàn huyên, nhắc lại một thời khói lửa mà hào hùng. Ông định sau này lúc gần tạ thế sẽ dành tặng toàn bộ những hiện vật của mình cho bảo tàng quân sự Việt Nam.
![]() |
Vỏ quả bom Mỹ là một trong những kỷ vật được ông Yên dày công sưu tầm, lưu giữ. Ảnh Duy Ngợi. |
Gần 40 năm và trên 1.000 phần mộ đồng đội
Từ ngày về quê, ngoài làm kinh tế gia đình, cựu chiến binh Trần Ánh Yên còn dày công thu thập thông tin, phần mộ của những đồng đội đã ngã xuống nơi chiến trường.
Mỗi khi có dịp về những nơi mình đã chiến đấu, ông Yên đều cố nhớ lại xem tại đó có bao nhiêu đồng đội đã ngã xuống thì hỏi người dân xem có ai biết không rồi lấy thông tin, cứ như vậy càng ngày danh sách thông tin phần mộ liệt sỹ đồng đội của ông ngày càng một thêm dày. Sau ngày giải phóng, ông không nhớ rõ đã bao lần đi về thăm lại chiến trường xưa để tìm phần mộ đồng đội nhưng chắc rằng con số đó cũng đã trên chục lần. Tất cả mọi khoản kinh phí đi lại đều do riêng cá nhân ông cùng đội đội tự bỏ ra chứ không phải ai tài trợ.
Đến thời điểm này, ông và đồng đội của mình đã lập được danh sách 1.031 ngôi mộ liệt sỹ của Trung đoàn 271, Sư đoàn 302 hy sinh từ năm 1972 đến năm 1977 tại những chiến trường nơi ông đã từng công tác và chiến đấu. Rồi ông tập hợp, ghi chép lại cẩn thận trong 1 cuốn số có đầy đủ thông tin liệt sỹ gồm tên tuổi, quê quán, chức vụ, ngày hy sinh, đang yên nghĩ tại đâu… Nhờ đó, nhiều người thân các liệt sỹ không khỏi xúc động khi được ông cung cấp thông tin tận tình, chi tiết.
Ông bộc bạch: “Đối với những người như tôi, được trở về đã là may mắn. Bao đồng đội của mình đã về với đất, bỏ lại đằng sau mẹ già, em nhỏ… để mình có được cuộcsống ngày hôm nay. Như mắc nợ, tìm lại tên cho đồng đội là việc làm để tôi và đồng đội có thể thay lời tri ân với những người đã ngã xuống. Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, Trung đoàn 271 tổng kết có khoảng 1.600 chiến sỹ hi sinh, ngoài danh sách thông tin phần mộ liệt sỹ đã có thì vẫn còn hơn 500 liệt sỹ chưa tìm được phần mộ.
![]() |
Cựu chiến binh Trần Ánh Yên cùng cuốn sổ ghi chép thông tin, phần mộ đồng đội. Ảnh Duy Ngợi. |
Trong thời gian tới, ông dự định sẽ cùng đồng đội đi tìm được thông tin của những ngôi mộ liệt sỹ còn lại và làm một chiếc tủ trưng bày, ghi rõ tên và nguồn gốc của từng hiện vật mà ông đang có.
Hiện giờ, ông đã là chủ của một vườn hoa cây cảnh bạc tỷ nằm ven đường quốc lộ 7, thị trấn Đô Lương với sự giúp sức của người con trai cả. Người con trai út của ông cũng đã tốt nghiệp đại học và đang làm việc tại Đà Nẵng.
Hơn 20 năm trong sống và chiến đấu trong quân đội, ông được Đảng và Nhà nước tặng nhiều Huân, Huy chương cao quý như Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước Hạng Nhất, Huân chương Chiến sỹ vẻ vang, Huân chương Chiến công… và Huân chương Bảo vệ Tổ quốc do Nhà nước Campuchia tặng (1979-1999).