Phân bón không chịu thuế VAT - nông dân là người chịu thiệt?
- 10:36 01-11-2016
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Theo Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi bổ sung một số điều của các luật về thuế thì mặt hàng phân bón thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng (GTGT). Đã xuất hiện các hệ luỵ liên quan đến quy định tưởng chừng như là ưu đãi này.
“Lợi bất cập hại” khi phân bón không chịu thuế GTGT
Theo Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi bổ sung một số điều của các luật về thuế thì mặt hàng phân bón thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng (GTGT).
Việc từ chỗ thuộc diện áp dụng thuế GTGT thuế suất 5% chuyển sang đối tượng không chịu thuế GTGT nghe qua tưởng như sẽ có lợi cho doanh nghiệp (DN) và nông dân, nhưng thực ra không phải như vậy. Trước đây sản xuất phân bón chịu thuế đầu vào chủ yếu là 10%, thuế đầu ra 5%, tuy nhiên thuế đầu vào được khấu trừ và thậm chí hoàn thuế nếu mức thuế này cao hơn thuế đầu ra. Giờ đây khi áp dụng quy định mới thì DN không được khấu trừ thuế đầu vào, mà phải hạch toán vào chi phí.
Về lý thuyết, việc chuyển mặt hàng phân bón từ đối tượng chịu 5% thuế GTGT sang đối tượng không chịu thuế GTGT có thể dẫn đến hai khả năng trái ngược nhau: làm giảm giá bán, và làm tăng giá bán. Điều này phụ thuộc vào tỷ trọng chi phí đầu vào chịu thuế GTGT 10% trong cơ cấu giá sản phẩm.
Nếu tỷ trọng này thấp, ví dụ 10%, còn 90% còn lại của giá bán được cấu thành từ các khoản không chịu thuế GTGT như nguyên liệu là phân bón nhập khẩu (ví dụ phân ure, Kali, lân dùng để sản xuất phân NPK), tiền lương, khấu hao máy móc, lợi nhuận DN v.v…, thì việc không phải chịu thuế GTGT với mức 5% trên tổng giá thành sẽ làm giá bán giảm đi so với khi phải chịu 5% thuế GTGT đầu ra và được khấu trừ thuế GTGT đầu vào (vì thuế GTGT đầu vào không đáng kể). Đối tượng chính được hưởng lợi trong trường hợp này là phân bón nhập khẩu hoặc những đơn vị chuyên dùng nguyên liệu là các loại phân đơn nhập khẩu (không chịu thuế GTGT) để phối trộn một cách đơn giản và cho ra sản phẩm NPK mà người ta vẫn gọi là công nghệ “cuốc xẻng”.
Ngược lại, nếu tỷ trọng đó cao, từ 50% giá bán trở lên, mà đây lại là tình trạng phổ biến ở các DN sản xuất phân bón chân chính tại Việt Nam, thì phần thuế GTGT đầu vào lớn hơn khoản 5% thuế GTGT đầu ra, do đó việc miễn khoản 5% đầu ra nhưng không cho khấu trừ 10% đầu vào sẽ khiến giá thành tăng lên so với khi DN được hoàn thuế GTGT do thuế đầu ra nhỏ hơn thuế đầu vào khi phân bón chịu thuế GTGT 5%.
Giá thành tăng mà giá bán giữ nguyên thì DN chịu thiệt, còn nếu muốn giữ nguyên lợi nhuận thì DN phải tăng giá bán, và người chịu thiệt cuối cùng là nông dân. Chi phí sản xuất kinh doanh của các DN phân bón tăng lên do không được khấu trừ thuế đầu vào bình quân khoảng 5%-7,6%, thì kéo theo giá bán phân bón và chi phí đầu tư cho sản xuất nông nghiệp của nông dân cũng tăng lên đáng kể, do phân bón là vật tư thiết yếu trong sản xuất nông nghiệp, chiếm khoảng 40-50% tổng chi phí đầu tư.
Đồng thời, phân bón nhập khẩu không chịu thuế GTGT, điều này làm cho môi trường kinh doanh không bình đẳng mà có lợi cho các nhà sản xuất nước ngoài xuất khẩu phân bón sang Việt Nam, khuyến khích nhập khẩu và làm các doanh nghiệp sản xuất trong nước không cạnh tranh được về giá bán. Để giảm phần nào thiệt hại, các doanh nghiệp sản xuất trong nước buộc phải tính đến việc xuất khẩu (vì khi xuất khẩu các doanh nghiệp sẽ được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, do thuế suất xuất khẩu là 0%). Điều này sẽ tạo lên những cơn sốt giá phân bón ở trong nước khi vào vụ, gây ra hệ lụy phức tạp đối với thị trường phân bón đồng thời người nông dân sẽ phải chịu toàn bộ những ảnh hưởng/tác động này.
Mặt khác, do chi phí tăng cao các nhà đầu tư sẽ ngần ngại khi đầu tư sản xuất phân bón trong nước, đặc biệt là các dự án có công nghệ cao do không được hoàn thuế GTGT cho nhà xưởng, thiết bị, nguyên liệu vật tư. Điều này dẫn tới tình trạng ngành sản xuất phân bón trong nước mất động lực phát triển do sản phẩm trở nên kém cạnh tranh so với hàng nhập khẩu, và có nguy cơ bị hàng nhập khẩu đánh bại ngay trên sân nhà.
Tháo gỡ bằng “thuế suất 0%”
Đại diện Hiệp Hội Phân bón Việt Nam cho biết: Ngày 28/9/2016, tại Hà Nội, Bộ Công thương, Hiệp Hội Phân bón Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam đã tổ chức hội thảo về thị trường phân bón và đã thống nhất kiến nghị theo hướng chuyển phân bón thành đối tượng chịu thuế GTGT với thuế suất 0%, vừa để tạo sự bình đẳng với hàng nhập khẩu, vừa nhằm hỗ trợ nông dân.
Với việc điều chỉnh này, chi phí, giá thành, giá bán phân bón sẽ giảm xuống. Về phía doanh nghiệp, họ sẽ thấy được sự chia sẻ và hỗ trợ của Nhà nước về mặt thể chế, về chủ trương phát triển và hỗ trợ nông nghiệp, đầu tư phát triển sản xuất, đặc biệt là trong giai đoạn suy thoái kinh tế hiện nay. Từ đó, tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng trong kinh doanh giữa phân bón sản xuất trong nước với phân bón nhập khẩu, doanh nghiệp trong nước được tiếp thêm nguồn lực để tăng thị phần, cung cấp hàng do Việt Nam sản xuất cho nông dân Việt Nam sử dụng, bảo toàn được vốn Nhà nước do không bị phân bón nhập khẩu phá giá.
Về phía nông dân, nếu miễn thuế GTGT 5% phân bón thì mỗi năm sẽ vào khoảng 3,3 ngàn tỷ đồng và số tiền này sẽ hỗ trợ trực tiếp cho nông dân, đồng thời, bà con nông dân có nguồn cung ứng phân bón với giá ổn định, không bị sốt cục bộ, không bị lệ thuộc vào nước ngoài.
Theo Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi bổ sung một số điều của các luật về thuế thì mặt hàng phân bón thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng (GTGT).
Việc từ chỗ thuộc diện áp dụng thuế GTGT thuế suất 5% chuyển sang đối tượng không chịu thuế GTGT nghe qua tưởng như sẽ có lợi cho doanh nghiệp (DN) và nông dân, nhưng thực ra không phải như vậy. Trước đây sản xuất phân bón chịu thuế đầu vào chủ yếu là 10%, thuế đầu ra 5%, tuy nhiên thuế đầu vào được khấu trừ và thậm chí hoàn thuế nếu mức thuế này cao hơn thuế đầu ra. Giờ đây khi áp dụng quy định mới thì DN không được khấu trừ thuế đầu vào, mà phải hạch toán vào chi phí.
Về lý thuyết, việc chuyển mặt hàng phân bón từ đối tượng chịu 5% thuế GTGT sang đối tượng không chịu thuế GTGT có thể dẫn đến hai khả năng trái ngược nhau: làm giảm giá bán, và làm tăng giá bán. Điều này phụ thuộc vào tỷ trọng chi phí đầu vào chịu thuế GTGT 10% trong cơ cấu giá sản phẩm.
Nếu tỷ trọng này thấp, ví dụ 10%, còn 90% còn lại của giá bán được cấu thành từ các khoản không chịu thuế GTGT như nguyên liệu là phân bón nhập khẩu (ví dụ phân ure, Kali, lân dùng để sản xuất phân NPK), tiền lương, khấu hao máy móc, lợi nhuận DN v.v…, thì việc không phải chịu thuế GTGT với mức 5% trên tổng giá thành sẽ làm giá bán giảm đi so với khi phải chịu 5% thuế GTGT đầu ra và được khấu trừ thuế GTGT đầu vào (vì thuế GTGT đầu vào không đáng kể). Đối tượng chính được hưởng lợi trong trường hợp này là phân bón nhập khẩu hoặc những đơn vị chuyên dùng nguyên liệu là các loại phân đơn nhập khẩu (không chịu thuế GTGT) để phối trộn một cách đơn giản và cho ra sản phẩm NPK mà người ta vẫn gọi là công nghệ “cuốc xẻng”.
Ngược lại, nếu tỷ trọng đó cao, từ 50% giá bán trở lên, mà đây lại là tình trạng phổ biến ở các DN sản xuất phân bón chân chính tại Việt Nam, thì phần thuế GTGT đầu vào lớn hơn khoản 5% thuế GTGT đầu ra, do đó việc miễn khoản 5% đầu ra nhưng không cho khấu trừ 10% đầu vào sẽ khiến giá thành tăng lên so với khi DN được hoàn thuế GTGT do thuế đầu ra nhỏ hơn thuế đầu vào khi phân bón chịu thuế GTGT 5%.
Giá thành tăng mà giá bán giữ nguyên thì DN chịu thiệt, còn nếu muốn giữ nguyên lợi nhuận thì DN phải tăng giá bán, và người chịu thiệt cuối cùng là nông dân. Chi phí sản xuất kinh doanh của các DN phân bón tăng lên do không được khấu trừ thuế đầu vào bình quân khoảng 5%-7,6%, thì kéo theo giá bán phân bón và chi phí đầu tư cho sản xuất nông nghiệp của nông dân cũng tăng lên đáng kể, do phân bón là vật tư thiết yếu trong sản xuất nông nghiệp, chiếm khoảng 40-50% tổng chi phí đầu tư.
Đồng thời, phân bón nhập khẩu không chịu thuế GTGT, điều này làm cho môi trường kinh doanh không bình đẳng mà có lợi cho các nhà sản xuất nước ngoài xuất khẩu phân bón sang Việt Nam, khuyến khích nhập khẩu và làm các doanh nghiệp sản xuất trong nước không cạnh tranh được về giá bán. Để giảm phần nào thiệt hại, các doanh nghiệp sản xuất trong nước buộc phải tính đến việc xuất khẩu (vì khi xuất khẩu các doanh nghiệp sẽ được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, do thuế suất xuất khẩu là 0%). Điều này sẽ tạo lên những cơn sốt giá phân bón ở trong nước khi vào vụ, gây ra hệ lụy phức tạp đối với thị trường phân bón đồng thời người nông dân sẽ phải chịu toàn bộ những ảnh hưởng/tác động này.
Mặt khác, do chi phí tăng cao các nhà đầu tư sẽ ngần ngại khi đầu tư sản xuất phân bón trong nước, đặc biệt là các dự án có công nghệ cao do không được hoàn thuế GTGT cho nhà xưởng, thiết bị, nguyên liệu vật tư. Điều này dẫn tới tình trạng ngành sản xuất phân bón trong nước mất động lực phát triển do sản phẩm trở nên kém cạnh tranh so với hàng nhập khẩu, và có nguy cơ bị hàng nhập khẩu đánh bại ngay trên sân nhà.
Tháo gỡ bằng “thuế suất 0%”
Đại diện Hiệp Hội Phân bón Việt Nam cho biết: Ngày 28/9/2016, tại Hà Nội, Bộ Công thương, Hiệp Hội Phân bón Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam đã tổ chức hội thảo về thị trường phân bón và đã thống nhất kiến nghị theo hướng chuyển phân bón thành đối tượng chịu thuế GTGT với thuế suất 0%, vừa để tạo sự bình đẳng với hàng nhập khẩu, vừa nhằm hỗ trợ nông dân.
Với việc điều chỉnh này, chi phí, giá thành, giá bán phân bón sẽ giảm xuống. Về phía doanh nghiệp, họ sẽ thấy được sự chia sẻ và hỗ trợ của Nhà nước về mặt thể chế, về chủ trương phát triển và hỗ trợ nông nghiệp, đầu tư phát triển sản xuất, đặc biệt là trong giai đoạn suy thoái kinh tế hiện nay. Từ đó, tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng trong kinh doanh giữa phân bón sản xuất trong nước với phân bón nhập khẩu, doanh nghiệp trong nước được tiếp thêm nguồn lực để tăng thị phần, cung cấp hàng do Việt Nam sản xuất cho nông dân Việt Nam sử dụng, bảo toàn được vốn Nhà nước do không bị phân bón nhập khẩu phá giá.
Về phía nông dân, nếu miễn thuế GTGT 5% phân bón thì mỗi năm sẽ vào khoảng 3,3 ngàn tỷ đồng và số tiền này sẽ hỗ trợ trực tiếp cho nông dân, đồng thời, bà con nông dân có nguồn cung ứng phân bón với giá ổn định, không bị sốt cục bộ, không bị lệ thuộc vào nước ngoài.
Tác giả bài viết: PV
Nguồn tin: