Muốn quản lý giáo dục thật tốt thì đừng tìm cách đi một mình
- 08:37 27-06-2016
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Hình thức quản lý theo mục tiêu chất lượng mới là hình thức quản lý phù hợp với mục tiêu quản lý lâu dài của ngành.
LTS: Tiếp tục chuyên đề về đổi mới cán bộ quản lí giáo dục, trong bài viết này TS. Nguyễn Tùng Lâm nêu lên cấp thiết đổi mới công tác quản lí ở cơ sở, mà trực tiếp là giáo dục phổ thông. Vấn đề sẽ được giới thiệu trong hai bài khác nhau.
Thông qua bài viết này, tác giả đưa ra những quan điểm, chỉ rõ những vấn đề cần đổi mới trong công tác quản lý giáo dục ở các trường phổ thông hiện nay.
Đó là: Quản lý các nhà trường phổ thông theo đúng quy luật tích cực của nền kinh tế thị trường và Hội nhập quốc tế. Tập trung quản lý chất lượng giáo dục và thực hiện giáo dục chất lượng cao. Quản lý theo quy chế dân chủ và tự chủ trong các nhà trường phổ thông.
Về vai trò của cán bộ quản lý trong nhà trường phổ thông ở thế kỷ 21 – nhân tố quyết định của đổi mới quản lý giáo dục phổ thông.
Tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
Bài 1: Giáo dục phải theo cơ chế hội nhập quốc tế
Quản lý trường phổ thông theo quy luật tích cực của nền kinh tế thị trường
Phải nhận thức đất nước ta, dân tộc ta chỉ đổi mới được khi chúng ta chấp nhận phát triển đất nước theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giáo dục Việt Nam không tách mình khỏi xã hội.
Giáo dục cũng phải vận dụng những mặt tích cực và tìm cách hạn chế những tiêu cực của cơ chế thị trường thì mới phát triển bền vững. Vì thế Nghị quyết 29/TW về quan điểm chỉ đạo giáo dục đã khẳng định “Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục đào tạo”.
Toàn bộ hệ thống kinh tế, xã hội của nước ta hiện nay đều được phát triển theo quy luật cơ chế thị trường, giáo dục đào tạo không đi ngoài quy luật đó. Rất tiếc bấy lâu nay hệ thống quản lý giáo dục đào tạo của ta đã chưa xem trọng, chưa tích cực vận dụng những quy luật tích cực của cơ chế thị trường để cải tiến công tác quản lý, cứ níu kéo mãi cách chỉ đạo hành chính quan liêu bao cấp.
Cấp trên nghĩ hộ cấp dưới, cấp dưới chờ cấp trên chỉ đạo, không dám và không được chủ động, sáng tạo. Nếu các nhà trường phổ thông của chúng ta hiện nay quản lý theo quán tính - quản lý theo cơ chế bao cấp, chờ đợi cấp trên chỉ đạo, chắc khó phát triển theo được các yêu cầu đổi mới của giáo dục thế kỷ XXI.
Quy luật cao nhất của cơ chế thị trường là tất cả đều phải làm ra giá trị và mỗi sản phẩm ngày hôm nay phải tốt hơn ngày hôm qua. Khách hàng bao giờ cũng là “Thượng đế”.
Nhưng giáo dục Việt Nam cho đến nay chưa làm nổi kiểm định chất lượng cho tất cả các cơ sở giáo dục, Luật giáo dục không có điều nào bảo vệ người học. Học sinh và cha mẹ học sinh là người đánh giá đúng nhất và khách quan nhất về những gì giáo dục mang lại cho con em họ lại không được đề cao.
Thông qua bài viết này, tác giả đưa ra những quan điểm, chỉ rõ những vấn đề cần đổi mới trong công tác quản lý giáo dục ở các trường phổ thông hiện nay.
Đó là: Quản lý các nhà trường phổ thông theo đúng quy luật tích cực của nền kinh tế thị trường và Hội nhập quốc tế. Tập trung quản lý chất lượng giáo dục và thực hiện giáo dục chất lượng cao. Quản lý theo quy chế dân chủ và tự chủ trong các nhà trường phổ thông.
Về vai trò của cán bộ quản lý trong nhà trường phổ thông ở thế kỷ 21 – nhân tố quyết định của đổi mới quản lý giáo dục phổ thông.
Tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
Bài 1: Giáo dục phải theo cơ chế hội nhập quốc tế
Quản lý trường phổ thông theo quy luật tích cực của nền kinh tế thị trường
Phải nhận thức đất nước ta, dân tộc ta chỉ đổi mới được khi chúng ta chấp nhận phát triển đất nước theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giáo dục Việt Nam không tách mình khỏi xã hội.
Giáo dục cũng phải vận dụng những mặt tích cực và tìm cách hạn chế những tiêu cực của cơ chế thị trường thì mới phát triển bền vững. Vì thế Nghị quyết 29/TW về quan điểm chỉ đạo giáo dục đã khẳng định “Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục đào tạo”.
Toàn bộ hệ thống kinh tế, xã hội của nước ta hiện nay đều được phát triển theo quy luật cơ chế thị trường, giáo dục đào tạo không đi ngoài quy luật đó. Rất tiếc bấy lâu nay hệ thống quản lý giáo dục đào tạo của ta đã chưa xem trọng, chưa tích cực vận dụng những quy luật tích cực của cơ chế thị trường để cải tiến công tác quản lý, cứ níu kéo mãi cách chỉ đạo hành chính quan liêu bao cấp.
Cấp trên nghĩ hộ cấp dưới, cấp dưới chờ cấp trên chỉ đạo, không dám và không được chủ động, sáng tạo. Nếu các nhà trường phổ thông của chúng ta hiện nay quản lý theo quán tính - quản lý theo cơ chế bao cấp, chờ đợi cấp trên chỉ đạo, chắc khó phát triển theo được các yêu cầu đổi mới của giáo dục thế kỷ XXI.
Quy luật cao nhất của cơ chế thị trường là tất cả đều phải làm ra giá trị và mỗi sản phẩm ngày hôm nay phải tốt hơn ngày hôm qua. Khách hàng bao giờ cũng là “Thượng đế”.
Nhưng giáo dục Việt Nam cho đến nay chưa làm nổi kiểm định chất lượng cho tất cả các cơ sở giáo dục, Luật giáo dục không có điều nào bảo vệ người học. Học sinh và cha mẹ học sinh là người đánh giá đúng nhất và khách quan nhất về những gì giáo dục mang lại cho con em họ lại không được đề cao.
Nhà giáo Nguyễn Tùng Lâm - Tác giả bài viết.
Thầy có quyền của thầy, trường có quyền của trường làm sao học sinh và cha mẹ học sinh làm “Thượng đế” được? Mất dân chủ trong các trường học là điều không nên có của giáo dục Việt Nam.
Bao giờ mỗi nhà trường phải là “một thương hiệu” được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm xã hội về chất lượng đào tạo toàn diện của mình, lúc đó chúng ta mới có chất lượng thật của ngành giáo dục.
Trong các nhà trường phổ thông hiện nay, người dân đều phải đóng góp kinh phí ít nhiều (tùy theo loại hình trường), cha mẹ học sinh càng phải là “Thượng đế”, họ phải được đáp ứng những nhu cầu chính đáng, tương xứng với những đóng góp của họ.
Để thực thi quản lý cả hệ thống theo quy luật tích cực của cơ chế thị trường thì hệ thống đó phải cực kỳ linh hoạt, chuyên nghiệp, và quan trọng phải phân cấp triệt để cho cơ sở được tự chủ, tự chịu trách nhiệm trước mục tiêu bảo đảm chất lượng toàn diện của mỗi cơ sở.
Nói như Nghị quyết 29/TW là “phải phân định công tác quản lý nhà nước và quản trị của các cơ sở giáo dục đào tạo”. Toàn hệ thống quản lý giáo dục đào tạo phải thay đổi hẳn cách quản lý, không làm thay bất cứ việc gì nếu đấy là việc của cơ sở.
Hệ thống quản lý giáo dục ở các cấp trên cơ sở chỉ tập trung làm chính sách và giám sát hệ thống. Phát hiện những nơi yếu kém, những nơi khó khăn để tập trung nguồn lực hỗ trợ, giúp đỡ. Như vậy những cơ quan quản lý giáo dục đào tạo phải thay đổi tư duy 1800.
Trước đây nhất nhất cơ sở không được làm trái lệnh cấp trên, nay theo quy luật cơ chế thị trường: khuyến khích cơ sở chủ động xây dựng “Thương hiệu” đảm bảo chất lượng, phục vụ kịp thời nhu cầu người học, thì các cấp quản lý giáo dục đào tạo phải đặt lại câu hỏi “Các cấp quản lý giáo dục phải làm gì để kịp thời hỗ trợ cơ sở nâng cao chất lượng đào tạo?”.
Muốn tạo ra sự thay đổi này, các cán bộ quản lý giáo dục ở các cấp không chỉ thay đổi cách thức chỉ đạo mà quan trọng phải thay đổi triệt để nhận thức của cả hệ thống, có vậy chúng ta mới thực hiện được định hướng của Nghị quyết 29/TW “Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo, và trách nhiệm quản lý theo ngành, lãnh thổ của các bộ ngành địa phương.
Phân định công tác quản lý nhà nước với quản trị cơ sở giáo dục đào tạo. Đẩy mạnh phân cấp, nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của cơ sở giáo dục đào tạo”.
Như vậy theo NQ 29/TW, toàn ngành giáo dục đào tạo trong thời kỳ đổi mới toàn diện, triệt để phải “Đẩy mạnh phân cấp, nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động sáng tạo của các cơ sở giáo dục đào tạo”.
Để các nhà trường phổ thông hiện nay dễ dàng thích ứng với nền kinh tế thị trường, chúng tôi kiến nghị phải thay đổi cách chỉ đạo thi đua của ngành Giáo dục – Đào tạo; thay đổi các tiêu chí của Trường Chuẩn Quốc Gia.
Tập trung quản lý chất lượng
Vì lâu nay giáo dục Việt Nam chỉ nói đến, chứ không kiểm soát được chất lượng. Tạo ra chất lượng giáo dục phải là việc làm của cả hệ thống. Nhưng người trực tiếp làm ra chất lượng giáo dục là các cơ sở giáo dục đào tạo thì phải quan niệm chất lượng giáo dục là lẽ sống còn của mỗi nhà trường không có chất lượng thì cơ sở giáo dục đào tạo đó không có lý do tồn tại.
Trong cơ chế thị trường không thể để tồn tại bất cứ hình thức giáo dục nào không có chất lượng. Vì chỉ có giáo dục mới tạo ra nguồn lao động chất lượng cao, giáo dục Việt Nam lâu nay chưa thấy được trách nhiệm này. “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” trước hết phải là nền giáo dục có chất lượng.
Hình thức quản lý theo mục tiêu chất lượng mới là hình thức quản lý phù hợp với mục tiêu quản lý lâu dài của ngành, đồng thời cũng phù hợp sự phát triển khoa học quản lý thời cơ chế thị trường.
Chỉ có chất lượng, các cơ sở giáo dục đào tạo mới thu hút học sinh, mới đảm bảo nhịp độ phát triển bền vững, chống được những cách làm chỉ chạy theo số lượng, tùy tiện, hạ thấp yêu cầu giáo dục toàn diện như một số cơ sở giáo dục đào tạo lâu nay vẫn làm.
Chất lượng giáo dục quan trọng như vậy, các nhà trường phổ thông hiện nay cần phải nắm rõ “Thế nào là một cơ sở có chất lượng giáo dục? Để có chất lượng giáo dục các cơ sở giáo dục phải xây dựng, làm tốt những yếu tố cơ bản nào? Và làm thế nào để làm tốt được những yếu tố đó?
Ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh các nhà quản lý, giáo viên các nhà trường phổ thông, người thiết kế và làm nên chất lượng giáo dục không chỉ nắm vững quan niệm về chất lượng giáo dục ở Việt Nam hiện nay như tài liệu “Chất lượng giáo dục những vấn đề lý luận và thực tiễn” do giáo sư Nguyễn Hữu Châu chủ biên (2008) nêu:
“Chất lượng giáo dục thường liên quan đến thành tích học tập, sự đáp ứng các chuẩn mực và giá trị, sự phát triển cá nhân người học; lợi ích của những đầu tư và sự phù hợp những mục tiêu đề ra” (Tr.8).
Mặt khác, các cơ sở giáo dục phổ thông cần nắm vững tinh thần cốt lõi về chất lượng giáo dục mà UNESCO đã tổng kết “có hai nguyên tắc đặc trưng cho hầu hết những cố gắng để định nghĩa chất lượng giáo dục.
Nguyên tắc thứ nhất xác định sự phát triển về mặt nhận thức của người học như là mục tiêu chính, rõ ràng của tất cả các hệ thống giáo dục, xem thành công ở lĩnh vực này như là một chỉ số về chất lượng. Nguyên tắc thứ hai nhất mạnh đến vai trò của giáo dục trong việc thúc đẩy những giá trị chung và sự phát triển tính sáng tạo và cảm xúc.
Đây là những mục tiêu mà kết quả đạt được khó đánh giá hơn nhiều” (Báo cáo tóm tắt giáo dục cho mọi người, yêu cầu khẩn thiết về giáo dục” UNESCO 2005 (Tr.5).
Quá trình giáo dục của TS. Nguyễn Tùng Lâm.
Như vậy UNESCO lấy 2 chỉ số cốt lõi để đánh giá chất lượng giáo dục mà mỗi cơ sở giáo dục phải thực hiện được. Đó là:
Sự phát triển nhận thức của người học
Thúc đẩy những giá trị chung và sự phát triển tính sáng tạo và cảm xúc (của người học).
Nếu chỉ bám vào quan niệm khái quát “chất lượng giáo dục là sự phù hợp với mục tiêu giáo dục” nghĩa là các nhà trường phổ thông hiện nay chỉ cần bám vào mục tiêu của các cấp học mà Nghị Quyết 29/TW đã nêu để thực hiện một cách hiệu quả.
Nhưng nếu các việc làm của chúng ta lại không hướng tới sự chuyển biến về nhận thức, thúc đẩy những giá trị ở người học – liệu đó có phải đã bảo đảm chất lương chưa? Chúng tôi quan niệm đây là những tiêu chí hết sức quan trọng để các nhà giáo đánh giá kết quả giáo dục của mình.
Lâu nay chúng ta chỉ mới quan tâm xem học sinh có học giỏi, nắm vững các kiến thức sách giáo khoa, chương trình hay không.
Từ tri thức khoa học, học sinh đã trưởng thành như thế nào, nhận thức sâu sắc hơn về đời sống xã hội về tự nhiên và quan trọng các em có sự chuyển đổi, phát triển hơn sau mỗi năm học về phẩm chất năng lực của mình để có thêm khát vọng, ước mơ và mong muốn hoàn thiện bản thân từ việc làm thực tế, thực hành sáng tạo và theo đó là những cảm xúc phong phú, hài hòa và làm nảy sinh những tình cảm đẹp, những ước mong lành mạnh tươi mới của tuổi trẻ.
Đây là 3 nhân tố quan trọng để hình thành và phát triển nhân cách, chương trình giáo dục nào cũng phải luôn hướng tới, đạt kết quả cao nhất đó.
Còn tiếp...
Tác giả bài viết: TS. Nguyễn Tùng Lâm